Monday, December 5, 2011

SẮC PHONG












SẮC  PHONG  SẮC TẶNG



 (Họ Nguyễn Viết làng Dã Lê Thượng)

                    








Người dịch: Phạm Đức Thành Dũng

Phòng nghiên cứu

Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế

 Dịch năm 2003






Sắc Phong Năm Khải Định Thứ Hai

 (Sắc phong họ  Nguyễn Viết)






PHIÊN ÂM:



Sắc Thừa Thiên phủ.  Hương Thuỷ huyện.  Dã Lê Thượng xã.  Phụng sự tiền khai canh  Nguyễn Viết Định Đại lang chi thần.  Nãm trứ linh ứng.  Tứ kim phỉ thừa cách mệnh, miến niệm thần hưu, trú phong vi Dực bảo Trung hưng Linh phò tôn thần.  Chuẩn kỳ phụng sự, thứ cơ Thần kỳ tương hựu, bảo ngã lê dân. 

Khâm tai!



    Khải Định nhị niên tam nguyệt thập bát nhật





DỊCH NGHĨA:



Sắc phong cho thần Tiền khai canh NGUYỄN VIẾT ĐỊNH (vốn là con trưởng) nguyên được thờ cúng tại xã Dã Lê Thượng, huyện Hương Thuỷ, phủ Thừa Thiên, xét thấy vẫn thường linh ứng, nay Trẫm thừa kế mệnh lớn, đoái nghĩ công lao các thần, nên ban cho làm Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Tôn Thần.  Chuẩn cho địa phương tiếp tục thờ cúng, để thần tương trợ, bảo vệ và giúp đỡ cho dân ta. 

Khâm tai!



Năm Khải Định thứ 2 ngày 18 tháng 3 (1917)














Sắc Phong Năm Khải Định Thứ Nhất

 (ký hiệu sắc phong 1)




PHIÊN ÂM:



Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế chế viết. 

Trẫm duy, tất hữu dư khương nghĩa  thường suy ư Khôn tịch. 

Thụ tư giới phước loại hữu thủ ư Tấn phủ

Quyến nãi lương khuê, mậu tư sủng số

Tư nhỉ Nguyễn Thị Chanh, cố nãi Đô thống phủ Đô thống hưu trí Nguyễn Viết Hữu chi tằng tổ mẫu, ôn lương biểu thục, đoan chính đề cung. 

Bách niên cần kiệm chi dư phong sở thi dã viễn:

Sổ thế u tiêm chi ý hanh duy cửu nhi trưng

Phương thanh ký hiệp ư nghi gia; mỹ phước duật quang ư xương hậu.  Tưởng thử tằng tôn vĩnh dự giai do tích luỹ chi sở năng: Tức kim ân điển viễn suy nạp tố uyên  nguyên chi sở tự.  Tư đặc tặng nhĩ vi Tòng tứ phẩm Cung nhân Tứ chi cáo mệnh.  Ư hư! Cổn chương tích sủng dụng dương tiềm đức chi u quang: đồng quản tiêu phương vĩnh cố thừa gia chi khánh chỉ. 

Hệ duy linh sản, thức khắc thâm thừa.

 Khâm tai!

                                 

 Khải Định nguyên niên, thập nhị nguyệt, nhị thập bát nhật. 





DỊCH NGHĨA:



Nhận mệnh trời, hưng vận nước,

Hoàng đế chiếu rằng,

Trẫm nghĩ, gia đình nếu hưởng được phúc lành, thông thường phải suy luận từ việc tích đức của người mẹ; nhận được phúc lớn thì đa phần đều nhờ vào tượng của quẻ Tấn (quẻ Tấn là tượng cho người phụ nữ).  Do vậy phải khuyến khích những bậc nữ nhi đức hạnh bằng những ân sủng của triều đình. 

Nay xét người tên là NGUYỄN THỊ CHANH đã quá cố, vốn là Tằng tổ mẫu (bà cố) của  quan  Đô thống  phủ  Đô  thống  đã  hưu  trí  là Nguyễn Viết Hữu

Vốn người ôn lương hiền thục, đoan chinh khiêm cung.  Tiếng thơm đã vang xa từ những việc làm cần kiệm suốt trăm năm; tính hạnh khoan hoà tuy đã lâu mà vẫn toả sáng suốt mấy đời nay.  Thiết nghĩ kẻ tằng tôn (cháu bốn đời) mãi mãi được tiếng khen cũng là do đời trước tích lũy thiện nhân; nên nay ân điển cũng phải viễn suy, sao chẳng tìm nguồn gốc sâu xa mà ban tặng. 

Nay đặc cách ban tặng người làm Tòng tứ phẩm Cung nhân.  Ban cho sắc bằng này. 

Ô hô! Sắc bằng thể hiện ân sủng dùng để biểu dương đức hạnh tiềm tàng, ghi tên vào sử sách nêu mãi danh thơm, mãi mãi là phúc ấm cho gia đình. 

Tính khí còn hiển linh, nhận lấy hình thức khen thưởng này. 

Khâm tai!

                                                   

                                Năm Khải Định thứ nhất, ngày 28 tháng 12 (1916)







Sắc Phong Năm Thành Thái Thứ 9

 (ký hiệu sắc phong 2)


PHIÊN ÂM:



Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế chế viết. 

Trẫm duy, hữu khai tất tiên ký diễn phiên xương chi chỉ

Dụng dương quyết loại thức long ưu ác chi ân

Trung chẩn tiềm hình, nghi gia dị số

Tư nhĩ, nguyên nông nghiệp cố Nguyễn Viết Công, nãi Chưởng vệ Quyền chưởng Hùng Nhuệ dinh ấn triện Nguyễn Viết Hữu chi tổ phụ, từ hoà bỉnh ý, khải đệ đề cung.  Sổ thế bồi nhân, tải dốc di tôn chi khánh.  Bách niên thụ đức, quang khai tứ dận chi tường. 

Đỉnh chung tăng  phấn ư gia thanh

Ba cổn nghi ưng ư quốc sủng

Tứ kim nhật đàm phu khánh trạch thể thần tăng cấp sở sinh nhi thiện gia: truy tố khánh nguyên tứ tiện tái long phụ dị ác.  Tư đặc tặng nhĩ vi Tín nghĩa Đô uý Phó Quản cơ Tứ chi cáo mệnh, nhĩ kì đảo thừa quyến ác vĩnh lưu thế đức chi quan: tăng dụ ấm hưu thuần hà thiên gia chi khánh.

 Khâm tai!

                                              

            Thành Thái cửu niên thập lục nguyệt thập tam nhật. 





DỊCH NGHĨA:



Nhận mệnh trời, hưng vận nước,

Hoàng đế chiếu rằng:

Trẫm nghĩ, dựng xây đế nghiệp tất trước hết phải ban phúc cho thấm nhuần rộng khắp; dùng biểu dương thành tích cho mọi người phải ra ân cho tràn trề mọi nẻo. 

Truy công tích của kẻ bầy tôi, cần gia ân cho những thần dân đặc biệt. 

Nay xét người là NGUYỄN VIẾT CÔNG đã quá cố, vốn theo nghiệp nông gia, lại là tổ phụ (ông nội) của quan Chưởng vệ Quyền chưởng vệ Quyền chưởng ấn triện của Hùng Nhuệ dinh là Nguyễn Viết Hữu,

Tính hạnh khoan hoà nhân ái, cúc cung hiếu thảo.  Đến mấy đời un đúc lòng nhân, để lại hạnh vận cho con cháu; trăm năm nuôi dưõng đức lành, mở ra được hạnh phúc cho các đời nối dõi.  Vạc đồng bia đá ban khen để tăng thêm niềm khích lệ cho gia phong; áo gấm cân đai cũng là sự thể hiện sự quan tâm của đất nước. 

Nay gặp ngày lành, ban thưởng cho Tổ Tiên của các quan viên, cũng là tưới nhuận ân trạch cho các bầy tôi có công và người đã sinh thành  gia đình; truy xét nguồn gốc của  các công tích để ban thưởng ân điển triều đình, nhằm thấm tràn long ân. 

Vậy đặc biệt gia tặng người làm Tín nghĩa Đô uý Phó Quản cơ.  Ban cho sắc bằng này, người phải biết nhận ân trạch này để mãi mãi lưu lại ánh sáng của đạo đức cho muôn đời; tăng thêm những điều tốt lành để che chở cho cháu con, đồng thời chân chất gánh vác những trọng trách triều đình phó thác. 

Khâm tai!                                                                                                          

                               

Năm Thành Thái thứ 9, ngày 13 tháng 6.







Sắc Phong Năm Thành Thái Thứ 12

 (ký hiệu sắc phong 3)




PHIÊN ÂM:



Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế chế viết. 

Trẫm duy, hữu khai tất tiên ký diễn phiên xương chi chỉ

Dụng dương quyết loại thức long ưu ác chi ân

Truychẩn tiềm hình, nghi gia dị số

Tư nhĩ, nguyên tặng Tín nghĩa Đô uý Phó quản cơ Nguyễn Viết Công, nãi Thống chế Nguyễn Viết Hữu chi tổ phụ, từ hoà bỉnh di, khải dễ đề cung.  Sổ thế bồi nhân  tải đốc di tôn chi khánh: bách niên thụ đức quang khai tích dận chi tường.  Đỉnh chung tăng phấn ư gia thanh: ba cổn nghi ưng ư quốc sủng.  Tứ kim đàm phu khánh trạch thể thần tăng cấp vu sở sinh nhi thiện gia, truy tố khánh nguyên tích tiện hạp long phù dị ác. 

Tư đặc gia tăng  nhĩ vi Minh Nghĩa Đô Uý Quản cơ.  Tứ chi cáo mệnh.  Nhĩ kỳ kỳ thừa quyến, vĩnh lưu thế đức chi quan: tăng dụ ấm hưu thuần hà thiên gia chi khánh. 

Khâm tai!



Thành Thái thập nhị niên, bát nguyệt, nhị thập tứ nhật. 







DỊCH NGHĨA:



Nhận mệnh trời, hưng vận nước,

Hoàng đế chiếu rằng:

Trẫm nghĩ, dựng xây đế nghiệp tất trước hết phải ban phúc cho thấm nhuần rộng khắp; dùng biểu dương thành tích cho mọi người phải ra ân cho tràn trề mọi nẻo. 

Truy công tích của kẻ bầy tôi, cần gia ân cho những thần dân đặc biệt. 

 Nay xét người là NGUYỄN VIẾT CÔNG vốn đã được ban tặng là Tín nghĩa Đô uý Phó Quản cơ, lại là tổ phụ (ông nội) của quan Thống chế Nguyễn Viết Hữu

 Tính hạnh khoan hoà nhân ái, cúc cung hiếu thảo.  Đến mấy đời un đúc lòng nhân, để lại hạnh vận cho con cháu; trăm năm nuôi dưõng đức lành, mở ra được hạnh phúc cho các đời nối dõi.  Vạc đồng bia đá ban khen để tăng thêm niềm khích lệ cho gia phong; áo gấm cân đai cũng là sự thể hiện sự quan tâm của đất nước. 

Nay gặp ngày lành, ban thưởng cho Tổ Tiên của các quan viên, cũng là tưới nhuận ân trạch cho cac bầy tôi có công và người đã sinh thành và gia đình; truy xét nguồn gốc của  các công tích để ban thưởng ân điển triều đình, nhằm thấm tràn long ân. 

Vậy đặc biệt gia tặng người làm Minh Nghĩa Đô Uý Quản cơ.  Ban cho sắc bằng này, người phải biết nhận ân trạch này để mãi mãi lưu lại ánh sáng của đạo đức cho muôn đời; tăng thêm những điều tốt lành để che chở cho cháu con, đồng thời chân chất gánh vác những trọng trách triều đình phó thác. 

Khâm tai!                                                        

                                                             

                Năm Thành Thái thứ 12, ngày 24 tháng 8 (1899)









Sắc Phong Năm Thành Thái Thứ  

 (ký hiệu sắc phong 4)




PHIÊN ÂM:



Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế chế viết. 

Trẫm duy, Thần tử chí thân chi nghĩa, tư sư phụ dĩ sư quân

Triều đình tứ loai chi ân, ngụ cần trung vu cần hiếu. 

 Quỹ lễ chi xưng, duyên tình nhi suy

 Tư nhĩ, nguyên y nghiệp cố Nguyễn Viết Lộc, nãi Cấm binh Vệ uý lãnh Vũ Lâm dinh Hưu dực Chưởng vệ Quyền chưởng Dinh ấn Nguyễn Viết Hữu chi phụ, hoàng thử bỉnh di, thực hồ cựu đức: xử gia lạc hồ thiện sự, ái tử giáo dĩ nghĩa phương: tứ dư khương chi sở chung, hữu tượng hiền chi khắc  kế

 Nghi gia hiển hiệu, thức phát ư quang. 

 Tư đặc tặng  nhĩ vi Minh nghĩa Đô uý quản cơ.  Tứ chi cáo mệnh.  Ư hư! Khắc thuần kỳ long ký hữu quang vu tuyền nhưỡng, thượng đốc kỳ khánh dĩ trường hà vu quốc âm.  Ý khuyết tiềm hinh, phục thử hưu mệnh. 

Khâm tai!

                       

            Thành thái tư niên thập nhị nguyệt thập nhất nhật

  



DỊCH NGHĨA:

Nhận mệnh trời, hưng vận nước. 

Hoàng đế chiếu rằng:

Trẩm nghĩ, kẻ bầy tôi hết mình vì xã tắc cũng bắt đầu từ cái nghĩa thờ cha rồi đến thờ vua. 

Triều đình ban phát ân điển cho mọi người cũng phải tìm kẻ tôi trung ở nơi người  hiếu tử. 

Căn cứ vào điển lễ ban thưởng, cũng từ lý tình mà suy,

Nay xét người là: nguyên hành nghề lương y đã quá cố NGUYỄN VIẾT LỘC, là cha của quan Cấm binh Vệ uý lãnh Chưởng vệ của Hữu dực Vũ Lâm dinh, Quyền chưởng Dinh ấn Nguyễn Viết Hữu. 

Vốn biết giữ nghiêm gia phong, nuôi dưỡng đức lành.  Tề gia biết vui với điều thiện, yêu con biết dạy đúng điều nhân nghĩa.  Nay un đúc được hạnh vận cho nếp nhà, có được kẻ hiền tài nối dõi, càng tăng thêm vinh hiển, rạng rỡ với đời.  Nay, đặc cách tặng cho người làm Minh nghĩa Đô uý Quản cơ.  Ban cho bằng sắc này.  Ô hô! Được hưởng vinh quang này cũng đủ sáng lạng chốn gia hương, hãy tiếp tục phát huy để làm lớn rộng ân của nước.  Điều tốt đẹp tiếng thơm vang xa, hãy nhận lấy mệnh này!

Khâm tai!

                             

 Năm Thành Thái thứ tư, ngày 11 tháng 2.  1891







Sắc Phong Năm Thành Thái Thứ 9

 (ký hiệu sắc phong 5)




PHIÊN ÂM:



Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế chế viết. 

Trẫm duy:

Thần tử trí thân chi nghĩa, tư sự phụ dĩ sự quân

Triều đình tứ loại chi ân ngụ cần trung vu cần hiếu

Quỹ lễ chi xứng, duyên tình nhi suy

Tư nhĩ, nguyên tặng Minh Nghĩa Đô uý Quản cơ Nguyễn Viết Lục, nãi Chưởng vệ Quyền chưởng Hùng Nhuệ Dinh ấn triện Nguyễn Viết Hữu chi phụ

Hoàn thử bỉnh di, thực hồ cựu đức. 

Xử gia lạc hồ thiện sự, ái tử giáo dĩ nghĩa phương.  Tử dư khương chi sở chú: hũư tượng hiền chi khắc chế.  Nghi gia hiển hiệu, thức phát u quang. 

Tư dặc gia tặng nhĩ vi Phấn dũng Tưởng quân Cấm binh Phó vệ uý, thuỵ Cương Mại.  Tứ chi Cáo mệnh.  Ư hư! khắc chưởng kí long ký hữu quan vu tuyền nhưỡng: thưọng đốc ký khánh dĩ trường hà vu quốc âm.  Ý khuyết tiềm hinh, phục thử hưu mệnh.

 Khâm tai!

                                                              

 Thành Thái cửu niên lục nguyệt thập tam nhật







DỊCH NGHĨA:



Nhận mệnh trời, hưng vận nước. 

Hoàng đế chiếu rằng:

Trẩm nghĩ, kẻ bầy tôi hết mình vì xã tắc cũng bắt đầu từ cái nghĩa thờ cha rồi đến thờ vua. 

Triều đình ban ân cho người vụ vào kẻ tôi trung ở nơi người hiếu tử. 

Từ điển lễ của triều đình mà xem xét, củng từ tình lý mà luận suy

Nay xét người nguyên đã được tặng hàm Minh Nghĩa Đô uý Quản cơ là NGUYỄN VIẾT LỘC, lại là cha của quan Chưởng vệ Quyền chưởng ấn triện của Hùng Nhuệ dinh Nguyễn Viết Hữu,

Vốn biết giữ  nghiêm gia phong, nuôi dưỡng đức lành.  Tề gia biết vui với điều thiện, yêu con biết dạy đúng điều nhân nghĩa.  Nay un đúc được hạnh vận cho nước nhà, có được kẻ hiền tài nối dõi, càng tăng thêm vinh hiển, rạng rỡ với đời. 

Nay đặc cách gia tặng cho người làm Phấn dũng Tướng quân Cấm binh Phó vệ uý, ban thuỵ là Cương Mại.  Ban tặng cho sắc bằng này. 

Ô hô! Hưởng được long ân cũng là rạng danh với quê hương đất tổ; phải tiếp tục phát triển công ích đã đạt để mãi mãi đền ơn nước.  Điều tốt đẹp tiếng thơm vang xa, hãy nhận lấy mệnh này. 

Khâm tai!

                                 Năm Thành Thái thứ 9, ngày 13 tháng 3 (1896)







Sắc Phong Năm Thành Thái Thứ 12

 (ký hiệu sắc phong 6)


PHIÊN ÂM:



Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế chế viết. 

Trẫm duy, Thánh kinh thuỳ huấn khanh phu chi huấn hiển thân

Quốc điển sơ vinh phụ mẫu chi hàm thị tử

Quỹ lễ chi xứng, duyên tình chi suy

Tư nhĩ, nguyên tặng Phấn dũng Tướng quân Cấm binh Phó vệ uý Nguyễn Viết Lục, nãi Thống chế Nguyễn Viết Hữu chi phụ, phác mậu cổ phong, từ lương thiên tính.  Xử gia lạc thiện bá xứng dự vu châu lư; hữu tử tượng hiển tịch can thành vu bang quốc. 

Thành thử lệnh khí, triển bỉ thạc nhân.  Túc trưng yến dực chi mưu: tăng bí long

chương khí sủng.  Tứ kim quốc khánh đàm ân, suy cập gia phong, miễn nãi gia phong tích

thiện năng xương quyết hậu hạp kê di điển tái xỉ trù triêm

Tư dặc gia tặng nhĩ vi Cang dũng Tưởng quân Cấm binh Vệ uý, huý Cang Túc.  Tứ chi cáo mệnh.  Ư hư! Ba cổn vinh bao dịch diệp chi phong thanh: vĩnh thụ trung trinh thượng đốc lưu căn chi vũ lộ.  Do đa linh sảng hữu tri để thừu vô địch.  Khâm tai!

                                   

           Thành Thái thập nhị niên bát nguyệt nhị thập tứ nhật

                                                



DỊCH NGHĨA:



Nhận mệnh trời, hưng vận nước,

Hoàng đế chiếu rằng,

Trẫm nghĩ, Kinh sách của  Thánh hiền đã dạy khắp rằng, chữ hiếu của bậc đại phu đủ làm vinh hiển người thân; điển lệ của nước nhà quy định tôn vinh chức hàm của cha mẹ cũng xem xét từ con cháu. 

Từ điển lễ của quốc gia mà xem xét, cũng từ tinh lý để luận suy,

Nay xét người là NGUYỄN VIẾT LỘC nguyên đã được tặng hàm Phấn dũng Tướng  quân Cấm binh Phó vệ uý, lại là cha của quan Thống chế Nguyễn Viết Hữu,

Tính hạnh thuần phác giữ được nếp xưa, bẩm sinh từ lòng nhân ái. 

Tề gia vẫn nêu cao thiện tâm vang tiếng khen khắp châu quận; có con là bậc hiền tài vẫn một lòng bảo vệ quốc gia.  Trở thành một tài năng vượt chúng siêu quần.  Đã thể hiện được mưu hoạnh phó tà; làm sáng rỡ những ân sũng của nhà vua. 

Nay nhân ngày vui của đất nước xét công lao của những bậc sinh thành của công thần, truy cứu từ gia phong, biết tích thiện đem lại sự tốt lầnh cho đời sau, sao chẳng kê cứu những điển lệ của nước nhà để có ân điển thấm nhuần. 

Nay đặc cách gia tặng thêm cho người hàm Cang dũng Tưởng quân Cấm binh Vệ uý, ban cho thuỵ là Cang Túc.  Ban tặng cho sắc bằng này.  Ô hô! Áo gấm vinh hoa cho rạng danh gia thế, đời này sang đời khác; hãy mãi mãi vun đúc lòng trung trinh để tưới nhuận đạo lý ấy cho nề nếp gia đình mai sau. 

Còn tinh khí ắt sẽ biết, hãy thừa hưởng những thức tế cúng này. 

Khâm tai!

 Thành Thái năm thứ 12, ngày 24 tháng8 (1899)







Sắc Phong Năm Thành Thái Thứ Tư

 (ký hiệu sắc phong7)




PHIÊN ÂM:



Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế chế viết. 

Trẫm duy, Thần tử trí thân chi ti ết, trung tự hiếu di

Triều đình tứ loại chi ân, mẫu dĩ tử quý. 

Quỹ lễ chi xứng, duyên tình nhi suy

Tư nhĩ, Lê thị Liệu, nãi Cấm binh Vệ uý lãnh Vũ Lâm dinh Tả dực Chưởng vệ.  Quyền Chưởng dinh ấn Nguyễn Viết Hữu chi sinh mẫu, hồ phạm lưu huy, khuê nghi triển thục: tương phu dĩ đức, tử vô  thành.  Tứ dư khánh chi sở chung, tín thiện nhân chi hữu hậu.  Đãi kê di điển, triệu tứ vinh danh. 

Tư chuẩn phong nhĩ vi Chánh tứ phẩm Cung nhân, tứ chi cáo mệnh.  Ư hư, ỷ lư chi vọng cửu hỉ nãi cập vu thành lưu căn chi báo, kim tư thượng quán khuyết hậu. 

Khâm tai!

                                                      

  Thành Thái tứ niên thập nhị nguyệt thập nhất nhật 







DỊCH NGHĨA:



Nhận mệnh trời, hưng vận nước. 

Hoàng đế chiếu rằng:

Trẩm nghĩ, kẻ bầy tôi hết mình vì nước, chữ trung cũng phải bắt đầu bằng chữ hiếu. 

Trong ân điển của triều đình ban cho mọi người, cũng phải nghĩ chuyện mẹ nhờ con  mà vinh hiển

Căn cứ vào điển lễ xưa nay, cũng từ lý tình mà suy. 

Nay xét người là LÊ THỊ LIỆU, là sinh mẫu (mẹ ruột) của quan Cấm binh Vệ uý lãnh chức Chưởng vệ của Tả dực Vũ Lâm dinh, Quyền chưởng Dinh ấn là Nguyễn Viết Hữu. 

Vốn người đoan chính trang nghiêm, trung trinh hiền thục, dùng đức để giúp chồng, dùng nghĩa để nuôi con.  Nhờ vậy mà un đúc được gia phong, có hậu nhân là người tài giỏi.  Căn cứ vào điển lễ quốc gia, nay ban cho được vinh danh cùng non nước. 

Chuẩn phong cho người làm Chánh tứ phẩm Cung nhân, ban cho sắc bằng này.  Ô hô! Gia hương trông vọng đã lâu, nay mong ước đã thành, ấy cũng là phước báu lưu đời.  Nay ban thưởng ngõ hầu đền bù vậy.  Khâm tai!

                                                              

Thành Thái  năm thứ tư, ngày 11, tháng 2 (1891)


















SắcPhong Năm Thành Thái Thứ Tám

 (Ký Hiệu Sắc Phong 8)




PHIÊN ÂM:



Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế chế viết. 

Trẫm duy, dực nghiêm cộng phục vũ vi vương chi trảo nha

Tinh dung dụng chương quân thị thần như thủ túc

Cốc thời đảm nhật, chi phất khổng dương

Tư nhỉ, Cấm binh Vệ uý Chưởng vệ Quyền chưởng Vũ Lâm Hữu dực ấn triện lãnh Phó Đề đốc Quân vụ Nguyễn Viết Hữu, thương kiếm đản trường.  Can tương vĩ phụ. 

Bạt kiên chấp nhuệ lịch dương giáp trụ chi bang

Ngự vũ chiết chung uẩn súc thao kiềm chi học

Túc dạ phỉ giải, tiên hậu hàm cần

Tứ kim niệm chú an biên hàn bình chính nhu ư trọng ký

Duy nhĩ tài ưu ngự chúng can thành hạp giả ư tráng do

Tư chuẩn thưởng thăng Hùng uy Tướng quân Chưởng vệ

Tứ chi cáo mệnh thượng kỳ cổ uy thanh nhi sắc tuấn

Tinh kỳ giáp nguyêm quân lệnh địch đũng khí nhi vọng long

Bảo chướng thức biểu thú nghi kỳ nhận thu tư dĩ vĩnh chung dự

Khâm tai!

                         Thành Thái bát niên tứ nguyệt sơ tam nhật





DỊCH NGHĨA:



Nhận mệnh trời, hưng vận nước,

Hoàng đế chiếu rằng

Trẫm nghĩ, việt binh nghiêm ngặt phòng vệ, võ tướng là móng vuốt cho bật thiên tử

Nêu thành tích bằng lời hay, ấy là vua xem bầy tôi như thủ túc

Giờ lành hoà hợp, ban chiếu để ngợi khen

Xét người là Cấm binh Vệ uý Thự chưởng vệ Quyền chưởng Vũ Lâm Hữu dực ấn triện, lãnh chức Phó Đề đốc Quân vụ là NGUYỄN VIẾT HỮU, vốn côn quyền hơn sức, tài đao kiếm thần tình.  Bao phen điều binh khiển tướng dương danh nơi chiến địa; lắm bận chống xâm lăng trọn đời vì nghiệp võ.  Sớm hôm chẳng dám chây lười, trước sau một lòng cần mẫn. 

Nay người đã chú tâm việc trấn thủ biên cương, một lòng phò trợ, không uổng sự ký thác lớn lao; xét ngươi lại tài cán hơn người, nhất nhất bảo vệ non sông, mưu hoạch và công tích siêu việt.  Nay chuẩn thăng chức Hùng uy Tướng quân Chưởng vệ. 

Ban cho sắc bằng này cũng là cổ vũ động viên cho thanh danh thêm vang dội rạng rỡ; quân cơ càng phải nghiêm trang để tăng thêm dũng khí mà báo đền ơn vua.  Các phương án phòng vệ binh nhung càng phải cẩn trọng để mãi mãi xứng với lời khen. 

Khâm tai!           

Thành Thái thứ tám, ngày mồng 3 tháng 4 (1895). 








Sắc Phong Năm Thành Thái Thứ Tư

 (ký hiệu sắc phong 9)




PHIÊN ÂM:



Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế chế viết. 

Trẫm duy,

Dực nghiêm cọng phục vũ vi vương chi trảo nha

Tinh dung dụng chương quân thị thần như thủ túc

Cốc thời đản hiệp, chi phất khổng dương. 

Tư nhỉ Chưởng vệ Nguyễn Viết Hữu, thương kiếm thiện trường.  Can tương vĩ phụ

Bạt kiên chấp nhuệ lịch dương giáp trụ chi bang 

Ngự vũ chiết trung uẩn súc thao kiềm chi học

Túc dạ phỉ giải, tiện hàu hàm cần

Kim, phi thiệu bình cơ, ninh vong phấn vũ

 Duy nghĩ, túc nhàn sư luận thị dung phu ly

Tư chuẩn thăng thụ Nghiêm uy Tướng quân.  Thống chế hàm.  Tứ chi cáo mệnh. 

Thượng kỳ, khắc cật binh nhung hổ trướng tác hoàn hoàn chi tướng khí

Nhật nhàn dư vệ long tương tiêu kiểu kiểu chi hùng phong

Kỳ thận thu tư dĩ vĩnh chung dự.  Khâm tai!

                                               

Thành Thái thập nhất niên lục nguyệt thập tứ nhật





DỊCH NGHĨA:



Nhận mệnh trời, hưng vận nước,

Hoàng đế chiếu rằng

Trẫm nghĩ, việt binh nghiêm ngặt phòng vệ, võ tướng là móng vuốt cho bật thiên tử

Nêu thành tích bằng lời hay, ấy là vua xem bầy tôi như thủ túc

Giờ lành hoà hợp, ban chiếu để ngợi khen

Xét người là Chưởng vệ NGUYỄN VIẾT HỮU vốn côn quyền hơn sức, tài đao kiếm thần tình.  Bao phen điều binh khiển tướng dương danh nơi chiến địa; lắm bận chống xâm lăng trọn đời vì nghiệp võ.  Sớm hôm chẳng dám chây lười, trước sau một lòng cần mẫn. 

Đến nay, cơ nghiệp lớn vẫn bình an, dám đâu quên rèn binh bị.  Xét người hoàn thành soái luật, cần phải ban khen. 

Nay chuẩn thăng chức: Nghiêm uy Tướng quân nhận hàm Thống chế, Ban cho sắc bằng này.  Còn lại vẫn tiếp tục điều khiển binh nhung, nơi trướng soái làm bừng lên tráng khí, ngày nhàn ngựa xe binh tướng phải nêu cao hùng phong mạnh mẽ quân cơ. 

Các phương án phòng vệ binh nhung càng phải cẩn trọng để mãi mãi xứng với lời khen. 

Khâm tai!             

Thành Thái thứ11, ngày 14tháng 6 (1898). 








Sắc Phong Năm Duy Tân Thứ Tư

 (ký hiệu sắc phong 10)


PHIÊN ÂM:



Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế chế viết. 

Trẫm duy: Lão nhi trí sựnhân thần sở dỉ xử công danh thương dục thù lao. 

Vương giả sở dĩ toàn ân ngộ ty luân hửu diệu phần tử sinh quan

Tư nhỉ, nguyên Kinh binh Tứ vệ Thống chế kiêm sung Hộ thành Đề đốc Hậu bổ: Nguyễn Viết Hữu.  Hồ thỉ tráng hoài.  Can tương lợi khí: nghiêm dực khác công, vũ phục quả nghị. 

Duy nhất nãi tâm tráng do cửu trứ ư huy hiên

Thi xưng nguyên lão sủng mệnh điệp thùa ư đang bệ

Di vị trượng nhân phương kỳ quắc lạc thị năng dụng cổ thái hoàn chi dũng.  Bất vị trì khu cửu hứa phiên kinh mã xĩ chi suy.  Ngôn niệm lão thần, nghi chu di ác.  Trứ chuẩn thăng thụ Tráng vũ Tướng quân Đô thống phủ Đô thống, hồi quán hưu trí, chiếu cấp hưu bổng.  Tứ chi cáo mệnh, thượng kỳ giác cân đông lộ qui trượng tư môn tạ hổ qui lai, bất chí Bá lăng chi cựu sự, khoa lư dong dữ hảo truy hổ thượng chi cao phong. 

Khâm tai!

Duy Tân tứ niên ngũ nguyệt sơ tứ nhật





DỊCH NGHĨA:



Nhận mệnh trời, hưng vận nước, Hoàng đế chiếu rằng:

Trẫm nghĩ, Tuổi già mà hết mình vì nghĩa quân thần phải nên biệt đãi bằng công danh, ban thuởng để đền công,

Bậc vương giả lấy toàn ân mà đãi ngộ thì chỉ tờ chiếu chỉ khen cũng toả sáng, quê hương đất tổ cũnh rạng danh. 

Nay xét người là Kinh binh Tứ vệ Thống chế kiêm sung Hậu bổ chức Hộ thành Đề đốc NGUYỄN VIẾT HỮU,

Vốn có hoài bão công danh thật lớn, mà năng lực võ nghiệp hơn người.  Khi phòng vệ thì trang nghiêm kính cẩn, trong võ phục thì quả cảm cương nghị. 

Duy chỉ người giữ được hùng tâm tráng khí vững bền nên được ban tặng cờ lọng chỉ huy.  Lại được thơ khen là nguyên lão sủng mệnh bao lần nhận mệnh ở chốn bệ rồng. 

Có thể khen bậc anh kiệt lúc mới xuất hiện đã thể hiện khả năng và cái dũng mãnh của nhà võ tướng,

Song không thể nói tuấn mã rong ruỗi chiến trận lâu ngày khiến suy yếu mỏi mệt. 

Lời này để nhớ công lao của lão thần, để được thấm sâu ân trạch.  Nay chuẩn cho người được thăng thụ hàm Tráng vũ Tướng quân Đô thống phủ Đô thống.  Cho phép được về quê nghỉ hưu.  Chiếu theo hàm đó mà cấp hưu bổng.  Ban tặng cho sắc bằng này.  Còn chuyện về quê nghỉ hưu sau khi trả xong nghiệp võ, hãy theo chuyện xưa bắn hổ trở về quê, đừng lặp lại chuyện cũ ở Bá lăng.  Cứ rong ruỗi vó câu thong dong tự tại đùa vui với gió mát sông hồ. 

Khâm tai!

                Năm Duy Tân thứ tư, ngày mồng 4 tháng 5 (1911)






Sắc Phong Năm Bảo Đại Thứ Mười Sáu

 (ký hiệu sắc phong 11)


PHIÊN ÂM:



Thừa Thiên Hưng Vận. 

Hoàng Đế chế viết: Trẫm duy:

Nhân thần sự quân chi nghĩa túc dạ hàm cần

Triều đình ưu lão chi ân thuỷ chung nhất chí

Cốc thần đản hiệp- Chi bột tải ban

Tư, nhĩ Quảng Trị tỉnh Phó Lãnh Binh Nguyễn Viết Hiệu:

Hồ thĩ tráng hoài- Thao kiểm vỹ phụ

Kiếm mã cửu am quân luật truy tuỳ phân suý phủ chi lao

Mao hiên tham quyết nhung trù huấn luyện tối sư đồ chi vũ. 

Phương vị quán quân giả dũng do hiệu trì khu- Cứ nhi mã xỉ tựu suy lãn ngôn quắc thước

Viện tư cựu tích- Đặc bái thù triêm. 

Tư trứ chuẩn thăng thụ Cương Dũng Tướng Quân lãnh binh trật chánh tam phẩm hưu trí

Tích chi cáo mệnh- Thượng kỳ:

Đính đới tân ân quy lai cố lí cung mã thượng tầm dật thú,

Tự nhĩ tiêu dao giang hồ nguyện hiệu dư trung bất vong đồ báo. 

Khâm tai. 

Bảo Đại thập tứ  niên, ngũ nguyệt sơ thập nhật. 



           

DỊCH NGHĨA:



Thừa Thiên Hưng Vận. 

Hoàng Đế ban rằng: Trẫm nghĩ:

Nghĩa quân vương phụng thờ, quan lại ngày đêm gắng sức

 Ân lão thần ưu đãi, triều đình sau trước một lòng

Ngày lành tháng tốt- Ân chiếu ban ra

Nay ngươi NGUYỄN VIẾT HIỆU  phó Lãnh Binh tỉnh Quảng Trị

Nặng long hồ thỉ- Tài lớn lược thao

Chốn sa trường am tường quân luật, có công truỳ tuỳ suý phủ

Nơi nhung trướng quyết đoán việc binh, gắng sức huấn luyện sư đồ

Quán quân anh dũng đáng để noi theo- Niên lão nhược suy lời còn quắc thước. 

Nghĩ thành tích cũ- Ban phát trạch ân

Nay chuẩn cho thăng thụ Cương Dũng Tướng Quân, chức lãnh binh trật Chánh Tam phẩm, cho hưu trí. 

Ban cho cáo mệnh- Để cho:

Đội ân mới trở về quê cũ, vui tìm cung kiếm

Để được tiêu dao nơi sông hồ, chẳng quên trung nghĩa. 

Kính thay,       

Bảo Đại năm thứ 14 ngày 10 tháng 5.  (1938)








Sắc Phong Năm Bảo Đại Thứ 16

 (ký hiệu sắc phong 12)


PHIÊN ÂM:



Thừa Thiên Hưng Vận. 

Hoàng Đế chế viết: Trẫm duy:

Lương tướng kiện cọng võ phục huân danh mậu trứ ư đương thần. 

Quốc gia tưởng lục cựu thần sủng tích hạp long ư dị số. 

Thanh sơn ước tiễn-Tĩ các luân truyền. 

Tư nhĩ Lãnh Binh hưu trí Nguyễn Viết Hiệu:

Hồ thĩ tráng hoài – Can tương vĩ khí. 

Uẩn suất thao kiểm chi học hổ trướng phỉ anh. 

Lịch dương biện trụ chi ban viên môn trứ tích. 

Vệ dực đa tư ư uỷ ký- Phấn dương mỹ đạn ư cần lao. 

Chỉ duy minh triết bảo than sạ  xúc thu phong chi hứng. 

Cố niệm thuỷ chung địch tiết hợp đàm trạm lộ chi ân. 

Tư đặc chuẩn thăng thụ Hùng Uy Tướng Quân Chưởng Vệ, trật Tòng Nhị Phẩm, nhưng trí sự. 

Tích chi cáo mệnh.  Thượng kỳ:

Chĩ hà hồng hưu- Miễn đàn tố tiết. 

Tuyển thạch chi phong quang tuy lạc thiều mộng tần uynh.  

Gia sơn chi cảnh sắc thường xuân niên hoa trường dẫn. 

Khâm tai!

Bảo Đại thập lục niên, ngũ nguyệt sơ thập nhật. 

           



DỊCH NGHĨA:



Thừa Thiên Hưng Vận. 

Hoàng Đế ban rằng: Trẫm nghĩ:

Tướng giỏi kính giữ quân vụ, cần được danh vang lúc đương thời. 

Nước nhà tưởng thưởng cựu thần, nên theo sũng ân cho đặc biệt. 

Núi xanh hẹn ước – Gác tía truyền ban. 

Nay người Lãnh binh hưu trí  NGUYỄN VIẾT HIỆU:

Hồ thỉ nặng lòng- Can Tương tài lớn. 

Chất chứa thao lược, vang danh nơi hổ trướng. 

Thân trải võ ban, thánh tích chốn viên môn. 

Việc hộ vê nhiều phen gởi gắm- Nổi cần lao không chán nêu cao. 

Chỉ có tấm thân người hiền chợt chạm phải gió thu. 

Nên nghĩ tiết tháo trước sau hợp thấm nhuần ân trạch. 

Nay đặc biệt chuẩn cho thăng thụ Hùng Uy Tướng Quân Chưởng Vệ, trật Tòng nhị phẩm vẫn cho trí sự. 

Để cho: Được mãi tốt lành- Tận sức giữ tiết. 

Cảnh lâm tuyền lạc thú, mộng đẹp nhiều phen. 

Chốn vườn rộng xinh tươi, tuổi trời thêm mãi. 

               

Kính thay. 

Bảo Đại năm thứ 16 ngày 10 tháng 5.  (1940)









KHEN THƯỞNG


I.  Kim Khánh hạng ba



PHIÊN ÂM:

Cơ mật viện vi Tuân cấp sự

Tư phụng chuẩn hành dinh chi Kinh binh Tứ Đội vệ Thống chế Nguyễn Viết Hữu

dự hữu vi lao.  Trứ cấp tam hạng Kim khánh nhất diện tịnh thuỳ anh huyền bội.  Thị khuyến.  Khâm thử. 

Đẳng nhân nhiếp thử tuân cấp.  Chỉ phụng tu chí Tuân cấp. 

Thành Thái thập tứ niên chính nguyệt. 

Ân: Cơ mật viện



DỊCH NGHĨA:

Cơ mật viện xét việc Tuân cấp

Nay kính theo lời phê chuẩn Thống chế Nguyễn Viết Hữu thuộc Tứ vệ đội Kinh binh ở hành dinh có công lao, ban cấp cho một chiếc Kim Khánh hạng ba cùng dây đeo, để tỏ sự khích lệ. 

Vì lý do trên nên có Tuân cấp này

Thành Thái năm thứ tư, ngày 11, tháng 1 (1891)



II.  Long tinh hạng tư



PHIÊN ÂM:

Đại Nam Long tinh viện. 

Thừa thiên hưng vận.  Hoàng đế chế viết. 

 Quốc gia long thưởng bao thiên thù công. 

Tư đặc thưởng Đô thống Phủ Đô thống trí sự

Nguyễn Viết Hữu Tứ hạng long tinh. 

Dụng chương dị sủng.  Khâm thử!

Tại Đại Nam quốc Đô thành

Bảo Đại tam niên thập nguyệt tam thập nhật

Cơ mật viện cung lục



DỊCH NGHĨA:

Viện Đại Nam Long tinh

Thừa thiên hưng vận.  Hoàng đế ban rằng:

Nước nhà hậu thưởng để ngợi khen báo đáp công lao.  Nay đặc biệt thưởng cho Nguyễn Viết Hữu Đô thống Phủ Đô thống trí sự, Long tinh Hạng tư.  Ban để tỏ rỏ ân sủng khác thường.  Kính thay!

Cấp tại Kinh Đô nước Đại Nam

Bảo Đại năm thứ ba ng ày 30 tháng 10

Cơ mật viện kính chéo



III.  Tứ Đợi Đồng Đường



Thừa Thiên phủ- Hương Thủy huyện- Dạ Lê tổng, Dạ Lê Thượng xã, Đô Thống phủ, Đô Thống Trí Sự Nguyễn Viết Hữu- Tứ Đợi Đồng Đường.

Thi tứ ân sủng di liên

Quốc sư gia khánh

(Bảo Đại năm thứ 9, 1933)



No comments:

Post a Comment