SẮC PHONG
SẮC TẶNG
(Họ Nguyễn Viết làng Dã Lê
Thượng)
Người dịch: Phạm Đức Thành Dũng
Phòng nghiên cứu
Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế
Dịch năm 2003
|
Sắc
Phong Năm Khải Định Thứ Hai
(Sắc phong họ
Nguyễn Viết)
PHIÊN ÂM:
Sắc Thừa Thiên phủ. Hương Thuỷ huyện. Dã Lê Thượng xã. Phụng sự tiền khai canh Nguyễn Viết Định Đại lang chi thần. Nãm trứ linh ứng. Tứ kim phỉ thừa cách mệnh, miến niệm thần
hưu, trú phong vi Dực bảo Trung hưng Linh phò tôn thần. Chuẩn kỳ phụng sự, thứ cơ Thần kỳ tương hựu,
bảo ngã lê dân.
Khâm tai!
Khải Định nhị niên tam nguyệt thập bát nhật
DỊCH NGHĨA:
Sắc phong cho thần Tiền khai canh NGUYỄN
VIẾT ĐỊNH (vốn là con trưởng) nguyên được thờ cúng tại xã Dã Lê Thượng,
huyện Hương Thuỷ, phủ Thừa Thiên, xét thấy vẫn thường linh ứng, nay Trẫm thừa
kế mệnh lớn, đoái nghĩ công lao các thần, nên ban cho làm Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Tôn Thần.
Chuẩn cho địa phương tiếp tục thờ cúng, để thần tương trợ, bảo vệ và
giúp đỡ cho dân ta.
Khâm tai!
Năm Khải Định thứ 2
ngày 18 tháng 3 (1917)
|
Sắc Phong Năm Khải Định Thứ Nhất
(ký hiệu sắc phong 1)
PHIÊN ÂM:
Thừa Thiên
hưng vận, Hoàng đế chế viết.
Trẫm duy, tất
hữu dư khương nghĩa thường suy ư Khôn
tịch.
Thụ tư giới
phước loại hữu thủ ư Tấn phủ
Quyến nãi
lương khuê, mậu tư sủng số
Tư nhỉ Nguyễn Thị Chanh, cố nãi Đô thống phủ
Đô thống hưu trí Nguyễn Viết Hữu chi tằng tổ mẫu, ôn lương biểu thục, đoan
chính đề cung.
Bách niên cần
kiệm chi dư phong sở thi dã viễn:
Sổ thế u tiêm
chi ý hanh duy cửu nhi trưng
Phương thanh
ký hiệp ư nghi gia; mỹ phước duật quang ư xương hậu. Tưởng thử tằng tôn vĩnh dự giai do tích luỹ
chi sở năng: Tức kim ân điển viễn suy nạp tố uyên nguyên chi sở tự. Tư đặc tặng nhĩ vi Tòng tứ phẩm Cung nhân Tứ chi cáo mệnh. Ư hư! Cổn chương tích sủng dụng dương tiềm
đức chi u quang: đồng quản tiêu phương vĩnh cố thừa gia chi khánh chỉ.
Hệ duy linh
sản, thức khắc thâm thừa.
Khâm tai!
Khải Định nguyên niên, thập nhị nguyệt, nhị
thập bát nhật.
DỊCH NGHĨA:
Nhận mệnh trời, hưng
vận nước,
Hoàng đế chiếu rằng,
Trẫm nghĩ, gia đình
nếu hưởng được phúc lành, thông thường phải suy luận từ việc tích đức của người
mẹ; nhận được phúc lớn thì đa phần đều nhờ vào tượng của quẻ Tấn (quẻ Tấn là
tượng cho người phụ nữ). Do vậy phải
khuyến khích những bậc nữ nhi đức hạnh bằng những ân sủng của triều đình.
Nay xét người tên là NGUYỄN
THỊ CHANH đã quá cố, vốn là Tằng tổ mẫu (bà cố) của quan
Đô thống phủ Đô
thống đã hưu
trí là Nguyễn Viết Hữu
Vốn người ôn lương
hiền thục, đoan chinh khiêm cung. Tiếng
thơm đã vang xa từ những việc làm cần kiệm suốt trăm năm; tính hạnh khoan hoà
tuy đã lâu mà vẫn toả sáng suốt mấy đời nay.
Thiết nghĩ kẻ tằng tôn (cháu bốn đời) mãi mãi được tiếng khen cũng là do
đời trước tích lũy thiện nhân; nên nay ân điển cũng phải viễn suy, sao chẳng
tìm nguồn gốc sâu xa mà ban tặng.
Nay đặc cách ban tặng
người làm Tòng tứ phẩm Cung nhân.
Ban cho sắc bằng này.
Ô hô! Sắc bằng thể
hiện ân sủng dùng để biểu dương đức hạnh tiềm tàng, ghi tên vào sử sách nêu mãi
danh thơm, mãi mãi là phúc ấm cho gia đình.
Tính khí còn hiển
linh, nhận lấy hình thức khen thưởng này.
Khâm tai!
Năm
Khải Định thứ nhất, ngày 28 tháng 12 (1916)
|
Sắc Phong Năm Thành Thái Thứ 9
(ký hiệu sắc phong 2)
PHIÊN ÂM:
Thừa Thiên
hưng vận, Hoàng đế chế viết.
Trẫm duy, hữu
khai tất tiên ký diễn phiên xương chi chỉ
Dụng dương
quyết loại thức long ưu ác chi ân
Trung chẩn
tiềm hình, nghi gia dị số
Tư nhĩ,
nguyên nông nghiệp cố Nguyễn Viết Công,
nãi Chưởng vệ Quyền chưởng Hùng Nhuệ dinh ấn triện Nguyễn Viết Hữu chi tổ phụ,
từ hoà bỉnh ý, khải đệ đề cung. Sổ thế bồi
nhân, tải dốc di tôn chi khánh. Bách
niên thụ đức, quang khai tứ dận chi tường.
Đỉnh chung tăng phấn ư gia thanh
Ba cổn nghi ưng ư quốc sủng
Tứ kim nhật đàm phu khánh trạch
thể thần tăng cấp sở sinh nhi thiện gia: truy tố khánh nguyên tứ tiện tái long
phụ dị ác. Tư đặc tặng nhĩ vi Tín nghĩa Đô uý Phó Quản cơ Tứ chi cáo
mệnh, nhĩ kì đảo thừa quyến ác vĩnh lưu thế đức chi quan: tăng dụ ấm hưu thuần
hà thiên gia chi khánh.
Khâm tai!
Thành Thái cửu niên thập lục nguyệt thập tam nhật.
DỊCH NGHĨA:
Nhận mệnh trời, hưng vận nước,
Hoàng đế chiếu rằng:
Trẫm nghĩ, dựng xây đế nghiệp
tất trước hết phải ban phúc cho thấm nhuần rộng khắp; dùng biểu dương thành
tích cho mọi người phải ra ân cho tràn trề mọi nẻo.
Truy công tích của kẻ bầy tôi,
cần gia ân cho những thần dân đặc biệt.
Nay xét người là NGUYỄN
VIẾT CÔNG đã quá cố, vốn theo nghiệp nông gia, lại là tổ phụ (ông nội) của
quan Chưởng vệ Quyền chưởng vệ Quyền chưởng ấn triện của Hùng Nhuệ dinh là
Nguyễn Viết Hữu,
Tính hạnh khoan hoà nhân ái,
cúc cung hiếu thảo. Đến mấy đời un đúc
lòng nhân, để lại hạnh vận cho con cháu; trăm năm nuôi dưõng đức lành, mở ra
được hạnh phúc cho các đời nối dõi. Vạc
đồng bia đá ban khen để tăng thêm niềm khích lệ cho gia phong; áo gấm cân đai
cũng là sự thể hiện sự quan tâm của đất nước.
Nay gặp ngày lành, ban thưởng
cho Tổ Tiên của các quan viên, cũng là tưới nhuận ân trạch cho các bầy tôi có
công và người đã sinh thành gia đình;
truy xét nguồn gốc của các công tích để
ban thưởng ân điển triều đình, nhằm thấm tràn long ân.
Vậy đặc biệt gia tặng người làm
Tín nghĩa Đô uý Phó Quản cơ. Ban
cho sắc bằng này, người phải biết nhận ân trạch này để mãi mãi lưu lại ánh sáng
của đạo đức cho muôn đời; tăng thêm những điều tốt lành để che chở cho cháu
con, đồng thời chân chất gánh vác những trọng trách triều đình phó thác.
Khâm tai!
Năm Thành Thái thứ 9, ngày 13
tháng 6.
|
Sắc Phong Năm Thành Thái Thứ 12
(ký hiệu sắc phong 3)
PHIÊN ÂM:
Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế
chế viết.
Trẫm duy, hữu khai tất tiên ký
diễn phiên xương chi chỉ
Dụng dương quyết loại thức long
ưu ác chi ân
Truychẩn tiềm hình, nghi gia dị
số
Tư nhĩ, nguyên tặng Tín nghĩa
Đô uý Phó quản cơ Nguyễn Viết Công,
nãi Thống chế Nguyễn Viết Hữu chi tổ phụ, từ hoà bỉnh di, khải dễ đề cung. Sổ thế bồi nhân tải đốc di tôn chi khánh: bách niên thụ đức
quang khai tích dận chi tường. Đỉnh chung
tăng phấn ư gia thanh: ba cổn nghi ưng ư quốc sủng. Tứ kim đàm phu khánh trạch thể thần tăng
cấp vu sở sinh nhi thiện gia, truy tố khánh nguyên tích tiện hạp long phù dị ác.
Tư đặc gia tăng nhĩ vi Minh Nghĩa Đô Uý Quản cơ. Tứ chi cáo mệnh. Nhĩ kỳ kỳ thừa quyến, vĩnh lưu thế đức chi
quan: tăng dụ ấm hưu thuần hà thiên gia chi khánh.
Khâm tai!
Thành Thái thập nhị niên, bát
nguyệt, nhị thập tứ nhật.
DỊCH NGHĨA:
Nhận mệnh trời, hưng vận nước,
Hoàng đế chiếu rằng:
Trẫm nghĩ, dựng xây đế nghiệp
tất trước hết phải ban phúc cho thấm nhuần rộng khắp; dùng biểu dương thành
tích cho mọi người phải ra ân cho tràn trề mọi nẻo.
Truy công tích của kẻ bầy tôi,
cần gia ân cho những thần dân đặc biệt.
Nay xét người là NGUYỄN VIẾT CÔNG vốn
đã được ban tặng là Tín nghĩa Đô uý Phó
Quản cơ, lại là tổ phụ (ông nội) của quan Thống chế Nguyễn Viết Hữu
Tính hạnh khoan hoà nhân ái, cúc cung hiếu
thảo. Đến mấy đời un đúc lòng
nhân, để lại hạnh vận cho con cháu; trăm năm nuôi dưõng đức lành, mở ra được
hạnh phúc cho các đời nối dõi. Vạc đồng
bia đá ban khen để tăng thêm niềm khích lệ cho gia phong; áo gấm cân đai cũng
là sự thể hiện sự quan tâm của đất nước.
Nay gặp ngày lành, ban thưởng
cho Tổ Tiên của các quan viên, cũng là tưới nhuận ân trạch cho cac bầy tôi có
công và người đã sinh thành và gia đình; truy xét nguồn gốc của các công tích để ban thưởng ân điển triều
đình, nhằm thấm tràn long ân.
Vậy đặc biệt gia tặng người làm
Minh Nghĩa Đô Uý Quản cơ. Ban cho
sắc bằng này, người phải biết nhận ân trạch này để mãi mãi lưu lại ánh sáng của
đạo đức cho muôn đời; tăng thêm những điều tốt lành để che chở cho cháu con,
đồng thời chân chất gánh vác những trọng trách triều đình phó thác.
Khâm tai!
Năm Thành Thái thứ 12, ngày 24 tháng 8 (1899)
|
Sắc Phong Năm Thành Thái Thứ Tư
(ký hiệu sắc phong 4)
PHIÊN ÂM:
Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế
chế viết.
Trẫm duy, Thần tử chí thân chi
nghĩa, tư sư phụ dĩ sư quân
Triều đình tứ loai chi ân, ngụ
cần trung vu cần hiếu.
Quỹ lễ chi xưng, duyên tình nhi suy
Tư nhĩ, nguyên y nghiệp cố Nguyễn Viết Lộc,
nãi Cấm binh Vệ uý lãnh Vũ Lâm dinh Hưu dực Chưởng vệ Quyền chưởng Dinh ấn
Nguyễn Viết Hữu chi phụ, hoàng thử bỉnh di, thực hồ cựu đức: xử gia lạc hồ
thiện sự, ái tử giáo dĩ nghĩa phương: tứ dư khương chi sở chung, hữu tượng hiền
chi khắc kế
Nghi gia hiển hiệu, thức phát ư quang.
Tư đặc tặng
nhĩ vi Minh nghĩa Đô uý quản cơ. Tứ chi cáo mệnh. Ư hư! Khắc thuần kỳ long ký hữu quang vu
tuyền nhưỡng, thượng đốc kỳ khánh dĩ trường hà vu quốc âm. Ý khuyết tiềm hinh, phục thử hưu mệnh.
Khâm tai!
Thành thái tư niên thập nhị nguyệt thập nhất nhật
DỊCH NGHĨA:
Nhận mệnh trời, hưng vận nước.
Hoàng đế chiếu rằng:
Trẩm nghĩ, kẻ bầy tôi hết mình
vì xã tắc cũng bắt đầu từ cái nghĩa thờ cha rồi đến thờ vua.
Triều đình ban phát ân điển cho
mọi người cũng phải tìm kẻ tôi trung ở nơi người hiếu tử.
Căn cứ vào điển lễ ban thưởng,
cũng từ lý tình mà suy,
Nay xét người là: nguyên hành
nghề lương y đã quá cố NGUYỄN VIẾT LỘC, là cha của quan Cấm binh Vệ
uý lãnh Chưởng vệ của Hữu dực Vũ Lâm dinh, Quyền chưởng Dinh ấn Nguyễn Viết Hữu.
Vốn biết giữ nghiêm gia phong,
nuôi dưỡng đức lành. Tề gia biết vui với
điều thiện, yêu con biết dạy đúng điều nhân nghĩa. Nay un đúc được hạnh vận cho nếp nhà, có được
kẻ hiền tài nối dõi, càng tăng thêm vinh hiển, rạng rỡ với đời. Nay, đặc cách tặng cho người làm Minh
nghĩa Đô uý Quản cơ. Ban cho bằng
sắc này. Ô hô! Được hưởng vinh quang này
cũng đủ sáng lạng chốn gia hương, hãy tiếp tục phát huy để làm lớn rộng ân của
nước. Điều tốt đẹp tiếng thơm vang xa,
hãy nhận lấy mệnh này!
Khâm tai!
Năm Thành Thái thứ tư, ngày 11 tháng 2. 1891
|
Sắc Phong Năm
Thành Thái Thứ 9
(ký hiệu sắc phong 5)
PHIÊN ÂM:
Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế
chế viết.
Trẫm duy:
Thần tử trí thân chi nghĩa, tư
sự phụ dĩ sự quân
Triều đình tứ loại chi ân ngụ
cần trung vu cần hiếu
Quỹ lễ chi xứng, duyên tình nhi
suy
Tư nhĩ, nguyên tặng Minh Nghĩa Đô uý Quản cơ Nguyễn Viết Lục,
nãi Chưởng vệ Quyền chưởng Hùng Nhuệ Dinh ấn triện Nguyễn Viết Hữu chi phụ
Hoàn thử bỉnh di, thực hồ cựu
đức.
Xử gia lạc hồ thiện sự, ái tử
giáo dĩ nghĩa phương. Tử dư khương chi
sở chú: hũư tượng hiền chi khắc chế. Nghi
gia hiển hiệu, thức phát u quang.
Tư dặc gia tặng nhĩ vi Phấn dũng Tưởng quân Cấm binh Phó vệ uý,
thuỵ Cương Mại. Tứ chi Cáo mệnh. Ư hư! khắc chưởng kí long ký hữu quan vu
tuyền nhưỡng: thưọng đốc ký khánh dĩ trường hà vu quốc âm. Ý khuyết tiềm hinh, phục thử hưu mệnh.
Khâm tai!
Thành Thái cửu niên lục nguyệt thập tam
nhật
DỊCH NGHĨA:
Nhận mệnh trời, hưng vận nước.
Hoàng đế chiếu rằng:
Trẩm nghĩ, kẻ bầy tôi hết mình
vì xã tắc cũng bắt đầu từ cái nghĩa thờ cha rồi đến thờ vua.
Triều đình ban ân cho người vụ
vào kẻ tôi trung ở nơi người hiếu tử.
Từ điển lễ của triều đình mà
xem xét, củng từ tình lý mà luận suy
Nay xét người nguyên đã được
tặng hàm Minh Nghĩa Đô uý Quản cơ là
NGUYỄN VIẾT LỘC, lại là cha của
quan Chưởng vệ Quyền chưởng ấn triện của Hùng Nhuệ dinh Nguyễn Viết Hữu,
Vốn
biết giữ nghiêm gia phong, nuôi dưỡng
đức lành. Tề gia biết vui với điều
thiện, yêu con biết dạy đúng điều nhân nghĩa.
Nay un đúc được hạnh vận cho nước nhà, có được kẻ hiền tài nối dõi, càng
tăng thêm vinh hiển, rạng rỡ với đời.
Nay
đặc cách gia tặng cho người làm Phấn dũng Tướng quân Cấm binh
Phó vệ uý, ban thuỵ là Cương Mại. Ban tặng cho sắc bằng này.
Ô hô!
Hưởng được long ân cũng là rạng danh với quê hương đất tổ; phải tiếp tục phát
triển công ích đã đạt để mãi mãi đền ơn nước.
Điều tốt đẹp tiếng thơm vang xa, hãy nhận lấy mệnh này.
Khâm
tai!
Năm Thành Thái
thứ 9, ngày 13 tháng 3 (1896)
|
Sắc Phong Năm Thành Thái Thứ 12
(ký hiệu sắc phong 6)
PHIÊN ÂM:
Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế
chế viết.
Trẫm duy, Thánh kinh thuỳ huấn
khanh phu chi huấn hiển thân
Quốc điển sơ vinh phụ mẫu chi
hàm thị tử
Quỹ lễ chi xứng, duyên tình chi
suy
Tư nhĩ, nguyên tặng Phấn dũng Tướng quân Cấm binh Phó vệ uý
Nguyễn Viết Lục, nãi Thống chế Nguyễn Viết Hữu chi phụ, phác mậu cổ phong,
từ lương thiên tính. Xử gia lạc thiện bá
xứng dự vu châu lư; hữu tử tượng hiển tịch can thành vu bang quốc.
Thành thử lệnh khí, triển bỉ
thạc nhân. Túc trưng yến dực chi mưu:
tăng bí long
chương khí sủng. Tứ kim quốc khánh đàm ân, suy cập gia phong,
miễn nãi gia phong tích
thiện năng xương quyết hậu hạp
kê di điển tái xỉ trù triêm
Tư dặc gia tặng nhĩ vi Cang dũng Tưởng quân Cấm binh Vệ uý,
huý Cang Túc. Tứ chi cáo mệnh. Ư hư! Ba cổn vinh bao dịch diệp chi phong
thanh: vĩnh thụ trung trinh thượng đốc lưu căn chi vũ lộ. Do đa linh sảng hữu tri để thừu vô địch. Khâm tai!
Thành Thái thập nhị niên bát nguyệt
nhị thập tứ nhật
DỊCH NGHĨA:
Nhận mệnh trời, hưng vận nước,
Hoàng đế chiếu rằng,
Trẫm nghĩ, Kinh sách của Thánh hiền đã dạy khắp rằng, chữ hiếu của bậc
đại phu đủ làm vinh hiển người thân; điển lệ của nước nhà quy định tôn vinh
chức hàm của cha mẹ cũng xem xét từ con cháu.
Từ điển lễ của quốc gia mà xem
xét, cũng từ tinh lý để luận suy,
Nay xét người là NGUYỄN
VIẾT LỘC nguyên đã được tặng hàm Phấn
dũng Tướng quân Cấm binh Phó vệ uý,
lại là cha của quan Thống chế Nguyễn Viết Hữu,
Tính hạnh thuần phác giữ được
nếp xưa, bẩm sinh từ lòng nhân ái.
Tề gia vẫn nêu cao thiện tâm
vang tiếng khen khắp châu quận; có con là bậc hiền tài vẫn một lòng bảo vệ quốc
gia. Trở thành một tài năng vượt chúng
siêu quần. Đã thể hiện được mưu hoạnh
phó tà; làm sáng rỡ những ân sũng của nhà vua.
Nay nhân ngày vui của đất nước
xét công lao của những bậc sinh thành của công thần, truy cứu từ gia phong,
biết tích thiện đem lại sự tốt lầnh cho đời sau, sao chẳng kê cứu những điển
lệ của nước nhà để có ân điển thấm nhuần.
Nay đặc cách gia tặng thêm cho
người hàm Cang dũng Tưởng quân Cấm binh Vệ uý, ban cho thuỵ là
Cang Túc. Ban tặng cho sắc bằng này. Ô hô! Áo gấm vinh hoa cho rạng danh
gia thế, đời này sang đời khác; hãy mãi mãi vun đúc lòng trung trinh để tưới
nhuận đạo lý ấy cho nề nếp gia đình mai sau.
Còn tinh khí ắt sẽ biết, hãy
thừa hưởng những thức tế cúng này.
Khâm tai!
Thành Thái năm thứ 12, ngày 24 tháng8 (1899)
|
Sắc Phong Năm Thành Thái Thứ Tư
(ký hiệu sắc phong7)
PHIÊN ÂM:
Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế
chế viết.
Trẫm duy, Thần tử trí thân chi
ti ết, trung tự hiếu di
Triều đình tứ loại chi ân, mẫu
dĩ tử quý.
Quỹ lễ chi xứng, duyên tình nhi
suy
Tư nhĩ, Lê thị Liệu, nãi
Cấm binh Vệ uý lãnh Vũ Lâm dinh Tả dực Chưởng vệ. Quyền Chưởng dinh ấn Nguyễn Viết Hữu chi sinh
mẫu, hồ phạm lưu huy, khuê nghi triển thục: tương phu dĩ đức, tử vô thành.
Tứ dư khánh chi sở chung, tín thiện nhân chi hữu hậu. Đãi kê di điển, triệu tứ vinh danh.
Tư chuẩn phong nhĩ vi Chánh tứ phẩm Cung nhân, tứ chi cáo
mệnh. Ư hư, ỷ lư chi vọng cửu hỉ nãi cập
vu thành lưu căn chi báo, kim tư thượng quán khuyết hậu.
Khâm tai!
Thành Thái tứ niên thập
nhị nguyệt thập nhất nhật
DỊCH NGHĨA:
Nhận mệnh trời, hưng vận nước.
Hoàng đế chiếu rằng:
Trẩm nghĩ, kẻ bầy tôi hết mình
vì nước, chữ trung cũng phải bắt đầu bằng chữ hiếu.
Trong ân điển của triều đình
ban cho mọi người, cũng phải nghĩ chuyện mẹ nhờ con mà vinh hiển
Căn cứ vào điển lễ xưa nay,
cũng từ lý tình mà suy.
Nay xét người là LÊ THỊ
LIỆU, là sinh mẫu (mẹ ruột) của quan Cấm binh Vệ uý lãnh chức Chưởng vệ
của Tả dực Vũ Lâm dinh, Quyền chưởng Dinh ấn là Nguyễn Viết Hữu.
Vốn người đoan chính trang
nghiêm, trung trinh hiền thục, dùng đức để giúp chồng, dùng nghĩa để nuôi con. Nhờ vậy mà un đúc được gia phong, có hậu nhân
là người tài giỏi. Căn cứ vào điển lễ
quốc gia, nay ban cho được vinh danh cùng non nước.
Chuẩn phong cho người làm Chánh
tứ phẩm Cung nhân, ban cho sắc bằng này.
Ô hô! Gia hương trông vọng đã lâu, nay mong ước đã thành, ấy cũng là
phước báu lưu đời. Nay ban thưởng ngõ
hầu đền bù vậy. Khâm tai!
Thành Thái năm thứ tư, ngày
11, tháng 2 (1891)
|
SắcPhong Năm Thành Thái Thứ Tám
(Ký Hiệu Sắc Phong 8)
PHIÊN ÂM:
Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế
chế viết.
Trẫm duy, dực nghiêm cộng phục
vũ vi vương chi trảo nha
Tinh dung dụng chương quân thị
thần như thủ túc
Cốc thời đảm nhật, chi phất
khổng dương
Tư nhỉ, Cấm binh Vệ uý Chưởng
vệ Quyền chưởng Vũ Lâm Hữu dực ấn triện lãnh Phó Đề đốc Quân vụ Nguyễn Viết Hữu, thương kiếm đản trường. Can tương vĩ phụ.
Bạt kiên chấp nhuệ lịch dương
giáp trụ chi bang
Ngự vũ chiết chung uẩn súc thao
kiềm chi học
Túc dạ phỉ giải, tiên hậu hàm
cần
Tứ kim niệm chú an biên hàn
bình chính nhu ư trọng ký
Duy nhĩ tài ưu ngự chúng can
thành hạp giả ư tráng do
Tư chuẩn thưởng thăng Hùng uy Tướng quân Chưởng vệ
Tứ chi cáo mệnh thượng kỳ cổ uy
thanh nhi sắc tuấn
Tinh kỳ giáp nguyêm quân lệnh
địch đũng khí nhi vọng long
Bảo chướng thức biểu thú nghi
kỳ nhận thu tư dĩ vĩnh chung dự
Khâm tai!
Thành Thái bát niên tứ
nguyệt sơ tam nhật
DỊCH NGHĨA:
Nhận mệnh trời, hưng vận nước,
Hoàng đế chiếu rằng
Trẫm nghĩ, việt binh nghiêm
ngặt phòng vệ, võ tướng là móng vuốt cho bật thiên tử
Nêu thành tích bằng lời hay, ấy
là vua xem bầy tôi như thủ túc
Giờ lành hoà hợp, ban chiếu để
ngợi khen
Xét người là Cấm binh Vệ uý Thự
chưởng vệ Quyền chưởng Vũ Lâm Hữu dực ấn triện, lãnh chức Phó Đề đốc Quân vụ
là NGUYỄN VIẾT HỮU, vốn côn quyền hơn sức, tài đao kiếm thần tình. Bao phen điều binh khiển tướng dương danh nơi
chiến địa; lắm bận chống xâm lăng trọn đời vì nghiệp võ. Sớm hôm chẳng dám chây lười, trước sau một
lòng cần mẫn.
Nay người đã chú tâm việc trấn
thủ biên cương, một lòng phò trợ, không uổng sự ký thác lớn lao; xét ngươi lại
tài cán hơn người, nhất nhất bảo vệ non sông, mưu hoạch và công tích siêu việt. Nay chuẩn thăng chức Hùng uy Tướng quân
Chưởng vệ.
Ban cho sắc bằng này cũng là cổ
vũ động viên cho thanh danh thêm vang dội rạng rỡ; quân cơ càng phải nghiêm
trang để tăng thêm dũng khí mà báo đền ơn vua.
Các phương án phòng vệ binh nhung càng phải cẩn trọng để mãi mãi xứng
với lời khen.
Khâm tai!
Thành
Thái thứ tám, ngày mồng 3 tháng 4 (1895).
|
Sắc Phong Năm Thành Thái Thứ Tư
(ký hiệu sắc phong 9)
PHIÊN ÂM:
Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế
chế viết.
Trẫm duy,
Dực nghiêm cọng phục vũ vi
vương chi trảo nha
Tinh dung dụng chương quân thị
thần như thủ túc
Cốc thời đản hiệp, chi phất
khổng dương.
Tư nhỉ Chưởng vệ Nguyễn Viết Hữu, thương kiếm thiện trường. Can tương vĩ phụ
Bạt kiên chấp nhuệ lịch dương
giáp trụ chi bang
Ngự vũ chiết trung uẩn súc thao
kiềm chi học
Túc dạ phỉ giải, tiện hàu hàm
cần
Kim, phi thiệu bình cơ, ninh
vong phấn vũ
Duy nghĩ, túc nhàn sư luận thị dung phu ly
Tư chuẩn thăng thụ Nghiêm uy Tướng quân. Thống
chế hàm. Tứ chi cáo mệnh.
Thượng kỳ, khắc cật binh nhung
hổ trướng tác hoàn hoàn chi tướng khí
Nhật nhàn dư vệ long tương tiêu
kiểu kiểu chi hùng phong
Kỳ thận thu tư dĩ vĩnh chung dự. Khâm tai!
Thành Thái thập nhất niên lục nguyệt thập tứ nhật
DỊCH NGHĨA:
Nhận mệnh trời, hưng vận nước,
Hoàng đế chiếu rằng
Trẫm nghĩ, việt binh nghiêm
ngặt phòng vệ, võ tướng là móng vuốt cho bật thiên tử
Nêu thành tích bằng lời hay, ấy
là vua xem bầy tôi như thủ túc
Giờ lành hoà hợp, ban chiếu để
ngợi khen
Xét người là Chưởng vệ NGUYỄN
VIẾT HỮU vốn côn quyền hơn sức, tài đao kiếm thần tình. Bao phen điều binh khiển tướng dương danh nơi
chiến địa; lắm bận chống xâm lăng trọn đời vì nghiệp võ. Sớm hôm chẳng dám chây lười, trước sau một
lòng cần mẫn.
Đến nay, cơ nghiệp lớn vẫn bình
an, dám đâu quên rèn binh bị. Xét người
hoàn thành soái luật, cần phải ban khen.
Nay chuẩn thăng chức: Nghiêm
uy Tướng quân nhận hàm Thống chế, Ban cho sắc bằng này. Còn lại vẫn tiếp tục điều khiển binh nhung,
nơi trướng soái làm bừng lên tráng khí, ngày nhàn ngựa xe binh tướng phải nêu
cao hùng phong mạnh mẽ quân cơ.
Các phương án phòng vệ binh
nhung càng phải cẩn trọng để mãi mãi xứng với lời khen.
Khâm tai!
Thành
Thái thứ11, ngày 14tháng 6 (1898).
|
Sắc Phong Năm Duy Tân Thứ Tư
(ký hiệu sắc phong 10)
PHIÊN ÂM:
Thừa Thiên hưng vận, Hoàng đế
chế viết.
Trẫm duy: Lão nhi trí sựnhân
thần sở dỉ xử công danh thương dục thù lao.
Vương giả sở dĩ toàn ân ngộ ty
luân hửu diệu phần tử sinh quan
Tư nhỉ, nguyên Kinh binh Tứ vệ Thống chế kiêm sung Hộ
thành Đề đốc Hậu bổ: Nguyễn Viết Hữu.
Hồ thỉ tráng hoài. Can tương lợi
khí: nghiêm dực khác công, vũ phục quả nghị.
Duy nhất nãi tâm tráng do cửu
trứ ư huy hiên
Thi xưng nguyên lão sủng mệnh
điệp thùa ư đang bệ
Di vị trượng nhân phương kỳ
quắc lạc thị năng dụng cổ thái hoàn chi dũng.
Bất vị trì khu cửu hứa phiên kinh mã xĩ chi suy. Ngôn niệm lão thần, nghi chu di ác. Trứ chuẩn thăng thụ Tráng vũ Tướng quân Đô thống phủ Đô thống, hồi quán hưu trí, chiếu
cấp hưu bổng. Tứ chi cáo mệnh, thượng kỳ
giác cân đông lộ qui trượng tư môn tạ hổ qui lai, bất chí Bá lăng chi cựu sự,
khoa lư dong dữ hảo truy hổ thượng chi cao phong.
Khâm tai!
Duy Tân tứ niên ngũ nguyệt sơ tứ nhật
DỊCH NGHĨA:
Nhận mệnh trời, hưng vận nước,
Hoàng đế chiếu rằng:
Trẫm nghĩ, Tuổi già mà hết mình
vì nghĩa quân thần phải nên biệt đãi bằng công danh, ban thuởng để đền công,
Bậc vương giả lấy toàn ân mà
đãi ngộ thì chỉ tờ chiếu chỉ khen cũng toả sáng, quê hương đất tổ cũnh rạng
danh.
Nay xét người là Kinh binh
Tứ vệ Thống chế kiêm sung Hậu bổ chức Hộ thành Đề đốc NGUYỄN VIẾT HỮU,
Vốn có hoài bão công danh thật
lớn, mà năng lực võ nghiệp hơn người. Khi
phòng vệ thì trang nghiêm kính cẩn, trong võ phục thì quả cảm cương nghị.
Duy chỉ người giữ được hùng tâm
tráng khí vững bền nên được ban tặng cờ lọng chỉ huy. Lại được thơ khen là nguyên lão sủng mệnh bao
lần nhận mệnh ở chốn bệ rồng.
Có thể khen bậc anh kiệt lúc
mới xuất hiện đã thể hiện khả năng và cái dũng mãnh của nhà võ tướng,
Song không thể nói tuấn mã rong
ruỗi chiến trận lâu ngày khiến suy yếu mỏi mệt.
Lời này để nhớ công lao của lão
thần, để được thấm sâu ân trạch. Nay
chuẩn cho người được thăng thụ hàm Tráng vũ Tướng quân Đô thống phủ Đô thống. Cho phép được về quê nghỉ hưu. Chiếu theo hàm đó mà cấp hưu bổng. Ban tặng cho sắc bằng này. Còn chuyện về quê nghỉ hưu sau khi trả xong
nghiệp võ, hãy theo chuyện xưa bắn hổ trở về quê, đừng lặp lại chuyện cũ ở Bá
lăng. Cứ rong ruỗi vó câu thong dong tự
tại đùa vui với gió mát sông hồ.
Khâm tai!
Năm Duy Tân thứ tư, ngày mồng 4 tháng 5 (1911)
|
Sắc Phong Năm Bảo Đại Thứ Mười Sáu
(ký hiệu sắc phong 11)
PHIÊN ÂM:
Thừa Thiên Hưng Vận.
Hoàng Đế chế viết: Trẫm duy:
Nhân thần sự quân chi nghĩa túc dạ hàm cần
Triều đình ưu lão chi ân thuỷ chung nhất chí
Cốc thần đản hiệp- Chi bột tải ban
Tư, nhĩ Quảng Trị tỉnh Phó
Lãnh Binh Nguyễn Viết Hiệu:
Hồ thĩ tráng hoài- Thao kiểm vỹ phụ
Kiếm mã cửu am quân luật truy tuỳ phân suý phủ chi lao
Mao hiên tham quyết nhung trù huấn luyện tối sư đồ chi vũ.
Phương vị quán quân giả dũng do hiệu trì khu- Cứ nhi mã xỉ tựu suy
lãn ngôn quắc thước
Viện tư cựu tích- Đặc bái thù triêm.
Tư trứ chuẩn thăng thụ Cương
Dũng Tướng Quân lãnh binh trật chánh tam phẩm hưu trí
Tích chi cáo mệnh- Thượng kỳ:
Đính đới tân ân quy lai cố lí cung mã thượng tầm dật thú,
Tự nhĩ tiêu dao giang hồ nguyện hiệu dư trung bất vong đồ báo.
Khâm tai.
Bảo Đại thập tứ niên, ngũ
nguyệt sơ thập nhật.
DỊCH NGHĨA:
Thừa Thiên Hưng Vận.
Hoàng Đế ban rằng: Trẫm nghĩ:
Nghĩa quân vương phụng thờ,
quan lại ngày đêm gắng sức
Ân lão thần ưu đãi, triều đình sau trước một
lòng
Ngày lành tháng tốt- Ân chiếu
ban ra
Nay ngươi NGUYỄN VIẾT HIỆU là phó Lãnh Binh tỉnh Quảng Trị
Nặng long hồ thỉ- Tài lớn lược
thao
Chốn sa trường am tường quân
luật, có công truỳ tuỳ suý phủ
Nơi nhung trướng quyết đoán
việc binh, gắng sức huấn luyện sư đồ
Quán quân anh dũng đáng để noi
theo- Niên lão nhược suy lời còn quắc thước.
Nghĩ thành tích cũ- Ban phát
trạch ân
Nay chuẩn cho thăng thụ Cương Dũng Tướng Quân, chức lãnh binh
trật Chánh Tam phẩm, cho hưu trí.
Ban cho cáo mệnh- Để
cho:
Đội ân mới trở về quê
cũ, vui tìm cung kiếm
Để được tiêu dao nơi
sông hồ, chẳng quên trung nghĩa.
Kính thay,
Bảo Đại năm thứ 14 ngày 10 tháng 5. (1938)
|
Sắc Phong Năm Bảo Đại Thứ 16
(ký hiệu sắc phong
12)
PHIÊN ÂM:
Thừa Thiên Hưng Vận.
Hoàng Đế chế viết: Trẫm duy:
Lương tướng kiện cọng võ phục huân danh mậu
trứ ư đương thần.
Quốc gia tưởng lục cựu thần sủng tích hạp
long ư dị số.
Thanh sơn ước tiễn-Tĩ các luân truyền.
Tư nhĩ Lãnh
Binh hưu trí Nguyễn Viết Hiệu:
Hồ thĩ tráng hoài – Can tương vĩ khí.
Uẩn suất thao kiểm chi học hổ trướng phỉ anh.
Lịch dương biện trụ chi ban viên môn trứ tích.
Vệ dực đa tư ư uỷ ký- Phấn dương mỹ đạn ư cần
lao.
Chỉ duy minh triết bảo than sạ xúc thu phong chi hứng.
Cố niệm thuỷ chung địch tiết hợp đàm trạm lộ
chi ân.
Tư đặc chuẩn thăng thụ Hùng Uy Tướng Quân Chưởng Vệ, trật Tòng Nhị Phẩm, nhưng trí sự.
Tích chi cáo mệnh. Thượng kỳ:
Chĩ hà hồng hưu- Miễn đàn tố tiết.
Tuyển thạch chi phong quang tuy lạc thiều
mộng tần uynh.
Gia sơn chi cảnh sắc thường xuân niên hoa
trường dẫn.
Khâm tai!
Bảo Đại thập lục niên, ngũ nguyệt sơ thập
nhật.
DỊCH NGHĨA:
Thừa Thiên Hưng Vận.
Hoàng Đế ban rằng:
Trẫm nghĩ:
Tướng giỏi kính giữ
quân vụ, cần được danh vang lúc đương thời.
Nước nhà tưởng thưởng
cựu thần, nên theo sũng ân cho đặc biệt.
Núi xanh hẹn ước –
Gác tía truyền ban.
Nay người Lãnh binh hưu trí NGUYỄN VIẾT HIỆU:
Hồ thỉ nặng lòng- Can
Tương tài lớn.
Chất chứa thao lược,
vang danh nơi hổ trướng.
Thân trải võ ban,
thánh tích chốn viên môn.
Việc hộ vê nhiều phen
gởi gắm- Nổi cần lao không chán nêu cao.
Chỉ có tấm thân
người hiền chợt chạm phải gió thu.
Nên nghĩ tiết tháo
trước sau hợp thấm nhuần ân trạch.
Nay đặc biệt chuẩn
cho thăng thụ Hùng Uy Tướng Quân Chưởng
Vệ, trật Tòng nhị phẩm vẫn cho trí sự.
Để cho: Được mãi tốt
lành- Tận sức giữ tiết.
Cảnh lâm tuyền lạc
thú, mộng đẹp nhiều phen.
Chốn vườn rộng xinh
tươi, tuổi trời thêm mãi.
Kính thay.
Bảo Đại năm thứ 16
ngày 10 tháng 5. (1940)
|
KHEN THƯỞNG
I. Kim Khánh hạng ba
PHIÊN ÂM:
Cơ mật viện vi Tuân cấp sự
Tư phụng chuẩn hành dinh chi
Kinh binh Tứ Đội vệ Thống chế Nguyễn Viết Hữu
dự hữu vi lao. Trứ cấp tam hạng Kim khánh nhất diện tịnh
thuỳ anh huyền bội. Thị khuyến. Khâm thử.
Đẳng nhân nhiếp thử tuân cấp. Chỉ phụng tu chí Tuân cấp.
Thành Thái thập tứ niên chính
nguyệt.
Ân: Cơ mật viện
DỊCH NGHĨA:
Cơ mật viện xét việc Tuân cấp
Nay kính theo lời phê chuẩn Thống
chế Nguyễn Viết Hữu thuộc Tứ vệ đội Kinh binh ở hành dinh có công lao,
ban cấp cho một chiếc Kim Khánh hạng
ba cùng dây đeo, để tỏ sự khích lệ.
Vì lý do trên nên có Tuân cấp
này
Thành Thái năm thứ tư, ngày 11,
tháng 1 (1891)
II. Long tinh hạng tư
PHIÊN ÂM:
Đại Nam Long tinh viện.
Thừa thiên hưng vận. Hoàng đế chế viết.
Quốc gia long thưởng bao thiên thù công.
Tư đặc thưởng Đô thống Phủ Đô
thống trí sự
Nguyễn Viết Hữu Tứ hạng long tinh.
Dụng chương dị sủng. Khâm thử!
Tại Đại Nam
quốc Đô thành
Bảo Đại tam niên thập nguyệt tam thập nhật
Cơ mật viện cung lục
DỊCH NGHĨA:
Viện Đại Nam Long tinh
Thừa thiên hưng vận. Hoàng đế ban rằng:
Nước nhà hậu thưởng để ngợi khen
báo đáp công lao. Nay đặc biệt thưởng
cho Nguyễn Viết Hữu Đô thống Phủ Đô thống trí sự, Long tinh Hạng tư. Ban để tỏ
rỏ ân sủng khác thường. Kính thay!
Cấp tại Kinh Đô nước Đại Nam
Bảo Đại năm thứ ba ng ày 30
tháng 10
Cơ mật viện kính chéo
III. Tứ Đợi Đồng Đường
Thừa Thiên phủ- Hương Thủy
huyện- Dạ Lê tổng, Dạ Lê Thượng xã, Đô Thống phủ, Đô Thống Trí Sự
Nguyễn Viết Hữu- Tứ Đợi Đồng Đường.
Thi tứ ân sủng di liên
Quốc sư gia khánh
(Bảo Đại năm thứ 9, 1933)
No comments:
Post a Comment