Tuesday, December 6, 2011

Sách Của Ba 7g06122011




NGUYỄN VIẾT Ô MAI LUÂN







Thơ văn



GIÁO DỤC GIA ĐÌNH










( Chỉ dành riêng trong dòng tộc)





2011 – Tân Mão








NGUYỄN VIẾT Ô MAI LUÂN

Sinh năm Giáp Tuất (1935? 1934???)



Pháp danh: Nguyên Nhơn

Pháp tự: Phước Hải

Bút hiệu: Nhất Tự












CHẴNG NGẠI CHI









Tuổi già chẳng biết làm việc chi

Chả lẽ ngồi xem tháng ngày đi

Từ nay kết nghĩa cùng giấy bút

Bao nỗi tâm tình cứ việc ghi

Lời hay ý đẹp lưu bút tích

Mai sau con cháu gắng thực thi

Còn sống làm sao còn có ích

Tận phút quy tiên chẳng ngại gì. 



Xuân Mậu Tý 2008

  NGUYÊN NHƠN





Một vài cảm nghĩ về ba đại tự
PHƯỚC
LỘC
THỌ



PHƯỚC – LỘC – THỌ là những điều mong ước thiết tha nhất của mọi người, nếu trọn vẹn được những điều tốt lành đó thì gia đình được hạnh phúc, vinh hoa phú quý trường thọ, cho nên người ta thường viết lớn ba chữ PHƯỚC – LỘC – THỌ (phần nhiều bằng chữ Hán), hoặc nặn tượng ba ông PHƯỚC – LỘC – THỌ để trang trí cho phòng khách thêm phần sang trọng hay biếu tặng thân bằng quyến thuộc trong những khi về nhà mới để chúc tụng, trong những ngày đầu xuân, người ta lại còn treo mấy chữ PHƯỚC – LỘC – THỌ - TOÀN vào cành mai, chậu quất, cành đào để cầu mong đủ các điều lành đó đến trong những ngày đầu  năm, thậm chí các nơi thờ tự, lăng mộ cũng có mặt PHƯỚC – LỘC – THỌ rất trang trọng, nhất là chữ PHƯỚC. 

Hễ thấy người nào có chức quan lớn, có địa vị tôn quý hoặc gặp được nhiều điều may mắn thì cho những người đó có PHƯỚC (Phước như Đông Hải), người nào ăn ra, làm được của cải dồi dào hoặc có chức quyền lại được người khác mang quà cáp đến biếu, tiền vô như nước, thì cho là người có tài LỘC đến (thần Tài ưu đãi), người nào sống lâu ngoài bảy mươi tuổi thì được họ hàng, đoàn thể hay con cháu làm lễ mừng THỌ (Thọ tỷ Nam Sơn)

Ước mong, mong ước chỉ có bấy nhiêu thôi mà chẳng mấy ai được toại nguyện, bèn sắm hương hoa đến chùa cầu Phật, giết heo giết gà mang đến  đền miếu cầu Thánh cầu Thần.  Nhưng khổ nỗi Phật - Thánh - Trời - Đất - Quỷ - Thần có bao giờ ban ơn giáng hoạ cho ai đâu! Trong kinh sách các Ngài dạy cũng đã từ lâu rồi:

“Phước do hiếu đức mới có, Lộc do cần kiệm mới nên, Thọ do thiểu dục tri túc, biết tôn trọng sự sống của muôn loài mới thành” hoặc “Hạnh phúc an vui vinh hoa phú quý là nhờ phước đức nhiều đời mới có, Thọ mà gặp nhiều tai hoạ đến là do ác nghiệp nhiều đời đã tạo nên”.

Có Phước là có tất cả. 

Muốn được PHƯỚC thì phải bố thí, giúp đỡ những người nghèo khổ neo đơn, tàn tật, thương yêu giúp đỡ bà con thân thuộc trong những lúc ngặt nghèo, đem tịnh tài cúng dường các nơi thờ tự làm tăng vẻ tôn nghiêm hoặc cúng dường các vị chân tu trì trai giữ giới thanh tịnh, khá hơn nữa thì tu bổ cầu cống, đường sá để sự giao thông được an toàn, người xưa thường nói “Cất giữ của cải không hẳn thuộc về mình, chỉ có đem của cải ra thí xả giúp ích cho mọi loài mới thật là của mình”.

Người nghèo khó không có tiền của cũng bố thí được, khuyên nhủ con cháu phải có trung có hiếu, làm lành, lánh dữ, đem những điều hay lẽ phải tuyền trao cho kẻ khác, lượm đinh, lượm gai, lượm mẻ chai dọc đường v.  v...  cũng được PHƯỚC, cũng quý hơn cả tiền của và quý hơn nữa là làm ơn làm phước mà không nghĩ đến sự đền đáp, nhờ những công đức ấy thì PHƯỚC lần lần hiển lộ, nếu được giàu sang hoặc thăng quan tiến chức thì phải hết mình làm lợi ích cho dân cho nước, đừng lợi dụng chức quyền mà tham lam vị kỷ, đàn áp dân lành vì trong chữ PHƯỚC đã có chữ HOẠ ẩn sẵn bên dưới. 

Muốn có LỘC thì phải quý trọng thời giờ, siêng năng cần mẫn, biết nắm lấy cơ hội, những việc gì có lợi cho mình và có lợi cho kẻ khác thì kiên nhẫn chăm làm, những việc gì chỉ có lợi cho mình mà tổn hại đến kẻ khác thì tuyệt đối không làm.  Tránh xa các điều xấu, điều ác, làm các việc lành, có trung, có hiếu mới nên danh, lấy chữ TÍN làm trọng, luôn luôn vui vẻ niềm nở với mọi người thì LỘC từ từ sẽ đến, tài lộc đến thì phải tiếp tục tô bồi thêm phước đức, đừng dùng thế lực đồng tiền hoặc cậy nhờ kẻ quyền thế áp đảo đổi trắng thay đen làm hại kẻ khác đau khổ. 

Những người nghèo khổ họ không buồn tủi do sự thiếu thốn về vật chất mà buồn tủi thấy kẻ khác tiêu xài quá sang trọng, quá phung phí tiền của vào bia rượu ăn chơi xả láng, chẳng những không đoái thương lắm kẻ đường cùng đói cơm rách áo, mà còn hà hiếp bóc lộc lương dân.  Nên nhớ rằng TÀI – LỘC phải do mồ hôi nước mắt của mình đổ ra mới bền vững, còn TÀI LỘC bất nghĩa cũng có ngày “chữ TÀI cùng với chữ TAI một vần” nào có khác chi. 

Muốn được THỌ thì ăn uống phải điều độ, hạn chế thịt cá vì khó tiêu, không nên ăn no, tuyệt đối không dùng những chất có độc hại nguy hiểm như xì ke ma tuý, hạn chế bia rượu, thuốc lá, sắc dục, phải thường xuyên luyện tập thân thể, nhất là không sân si, không phiền não, không sát sanh hại vật, phải làm nhiều việc phước đức thì tuổi thọ mới tăng.  Tuổi thọ càng tăng thì phải làm người mẫu mực trong gia đình và dòng họ để giáo dục con cháu nên người.  THỌ mà để con cháu sống bê tha bừa bãi, tranh tụng lẫn nhau thì rõ “thọ thị khổ”. 

Làm người rất khó, may có được

Thân này mang nặng lắm ân sâu

Đã THỌ làm sao cho đúng nghĩa

Để không hổ thẹn với non sông

Hoàn cảnh và cuộc sống đời người, chúng ta đã thường thấy: những thành công thì ít, thất bại thì nhiều, sự may mắn đến thì ít, mọi rủi ro ùa vào thì nhiều, an vui đến thì ít, buồn khổ đến thì  nhiều...  Xét cho kỹ tất cả đều có nguyên nhân của nó. 

Muốn có được những điều tốt lành, hàng ngày chúng ta phải tận trừ các chướng ngại tham - sân - si - tỵ hiềm - lười biếng mà mở rộng lòng từ bi - hỷ xả - vị tha- cần mẫn - nhẫn nhục- khoan hoà - nhân ái  thì PHƯỚC - LỘC - THỌ luôn luôn hiện hữu được Phật Thánh phò trì Thần linh che chở, cầu chi được nấy.  PHƯỚC - LỘC - THỌ vẹn toàn thì không những “thiên tai vạn hoạ nhất tề tiêu” (tai qua nạn khỏi) mà còn “vô hạn thần tiên tùng thử đắc” (mọi tốt lành đều đạt được).  Trái lại nếu sống mà không lo tu tâm sửa tánh, không kịp thời ngăn chặn các điều xấu ác thì tai hoạ trùng trùng kéo đến khó mà tránh khỏi. 

Còn chữ PHƯỚC trang trí nơi lăng mộ hay những nơi thờ tự, không những để tôn quý đức độ của tiền nhân mà còn có ý nhắc nhở con cháu hiếu thảo, tu tạo các phước lành để có công đức hồi hướng cho những người đã quá cố sớm vãng sanh lạc quốc và chỉ có phước đức sâu dày mới mong tiêu trừ được mọi tai hoạ. 

Nếu có những ai đó giữ được thân tâm thanh tịnh, bồ đề tâm kiên cố, dùng bút tinh cần chấm mực công đức, tô vẽ nên chữ PHƯỚC thì chữ PHƯỚC đó bất kỳ đặt ở đâu hoặc mang vào người  thì đó là một lá bùa hộ mạng vô cùng linh nghiệm, có thể tiêu trừ thiên tai vạn hoạ và ma quỷ không thể hại được. 

Dùng ba chữ PHƯỚC - LỘC - THỌ chỉ có tính cách trang trí chẳng có tác dụng nào cả, mà cần phải thường xuyên nhắc nhủ nhau tu tạo nhân lành may ra mới có kết quả tốt để mà thụ hưởng. 

PHƯỚC địa bao dung người chí hiếu

LỘC trời ban tặng kẻ kiên trung

THỌ thời tăng trưởng nhờ đức sáng

TOÀN gia quyến đẳng xiết vui mừng. 

PHƯỚC - LỘC - THỌ nó liên quan và hỗ trợ lẫn nhau rất mật thiết và đồng đều. 

Gieo được nhiều công đức thì phước lành đến, phước lành đến thì lộc được dồi dào, lộc được dồi dào thì bồi dưỡng thân tâm từ tinh thần đến thể chất thì tuổi thọ tăng, được tuổi thọ tăng thì trên phải tiếp tục tô bồi thêm hiếu đức, chăm lo phụng thờ Tiên Tổ, dưới tìm mọi cách giáo dục con cháu giữ gìn nề nếp gia phong, bỏ ác làm lành siêng năng học tập để nên người hữu ích cho gia đình và xã hội, như vậy cũng được phước và cứ thế ngày mỗi tăng trưởng thì PHƯỚC - LỘC - THỌ không những đến với chúng ta trong hiện tại và con cháu mai sau đều được hưởng thụ

Người người hạnh phúc bình an

Nhà nhà hưng thịnh xóm làng mừng vui



     Phước Hải – Ô MAI LUÂN







Lấy Trung Hiếu Giữ Nhà Bền Vững
Lấy Đức Nhân Xử Thế Dài Lâu

 












TỰ  NHỦ







Xuân đến xuân đi ngoại bảy lăm

Trãi  bao mưa bão nắng khô cằn

Hiếu - nghĩa - ân - tình chưa trả hết

Giờ đây sức tận biết mần răng

Thôi được bữa nào hay bữa ấy

Làm được cái chi cứ việc làm

Mai nầy quy Tổ lòng thanh thản

Vượt thẳng Tây Phương chẳng ngỡ ngàng. 



                 Xuân Kỷ Sửu 2009

                NHẤT TỰ










HOA THƠM QU NGT NHỜ GỐC RỄ

HIẾU TỬ TÔN VINH NHỚ CỘI NGUỒN






HƯỚNG VỀ CỘI  NGUỒN



Con người có Tổ có Tông

Như cây có cội như sông có nguồn



Theo khẩu truyền của các thế hệ truớc, từ thế kỷ 17 (cuối thời Trịnh Nguyễn phân tranh), Ngài Thị Tổ của chúng ta từ Thanh Hoá di cư vào vùng đất Dạ Lê này, đã vượt thắng thời tiết khắc nghiệt, sơn lam đầy chướng khí cùng kết hợp với một số người khác  biến đất đai cằn cổi thành một vùng đất trù phú, ruộng lúa phì nhiêu, nương vườn xanh tốt. Đã từ lâu Ngài được thờ tại đình lạng Dạ Lê Thượng, thường có những linh ứng bảo vệ và giúp đỡ cho dân làng nên đã được vua Khải Định truy phong: “Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Nguyễn Viết Quý Công Tôn Thần”.  (Sắc phong hiện còn lưu giữ). 

Đến Ngài Quản cơ đệ tứ thế cũng đã tiếp nối Cha Ông tô bồi thêm sự nghiệp, đã được Triều đình ban tặng lời khen (sắc phong này đã bị thất lạc) nên Ngài cũng có những địa vị xứng đáng trong xã hội được mọi người mến mộ.  Bà cũng được vua Khải Định ban sắc tặng: “Tòng Tứ Phẩm Cung Nhân với những lời khen: “Vốn ôn lương hiền thục, đoan chánh khiêm cung.  Tiếng thơm đã vang xa từ những việc làm cần kiệm suốt trăm năm, tánh hạnh khoan hoà nhân ái tuy đã lâu mà vẫn toả sáng mấy đời nay”(sắc tặng này hiện còn lưu giữ). 

Với những công lao ấy, những đức độ ấy, Ngài đã có bốn người con nối dõi, tức là  bốn Ngài Đầu Phái của ngày nay.  Từ một cội nguồn chúng ta có được bốn cái gốc, bốn cái gốc rất sung mãn. 

Theo truyền thống kế thừa việc thờ tự Tổ Tiên, kỵ chạp đều tổ chức tại nhà người Trưởng.  Đến đời thứ 7 Ngài Tướng quân Đô Thống Nguyễn Viết Hữu mới cúng tư thất của Ngài để làm Nhà Thờ Họ  (nguyên ngôi nhà rường bằng gỗ ba căn hai chái của Ngoại Tổ họ Nguyễn Công cho Ngài Đô Thống lúc mới lập gia thất vào khoảng  năm 1876). 

Tính từ năm 2010, còn tại thế từ đời thứ 9 đến đời thứ 13, con cháu cũng khá  đông đúc (nhất là phái Nhất) sống rải rác từ Bắc chí Nam, cũng có một số ra nước ngoài sinh cơ lập nghiệp, mặc dầu mãi bôn ba cho cuộc sống, nhưng cũng có những giây phút chạnh lòng nhớ đến quê hương, thỉnh thoảng cũng đưa con cháu về thăm lăng mộ Tổ đường để thắp một nén hương nguyện cầu âm siêu dương thới, hiện tiền con cháu xa gần an lành hạnh phúc và làm ăn phát đạt, thăm bà con họ hàng nội ngoại đôi bên để biết ai còn ai mất, tích cực đóng góp tiền của để tu bổ, tái thiết Từ đường Phái, Họ, nghĩa trang, giúp đỡ quỹ khuyến học, đáng kể nhất là Ông Nguyễn Viết Tú, Ông Nguyễn Viết Danh ở Mỹ. 

Ở quê nhà, dù lam lũ cực nhọc trăm bề, nhưng cũng không quên hương khói kỵ chạp hằng năm. 





I.  TÔN NGHIÊM TỔ ĐƯỜNG

Qua kinh nghiệm cuộc sống, chúng ta đã thấy được: Tổ đường có tôn nghiêm ấm cúng, ngày ngày hương khói thì con cháu mới ăn ra làm nên được, lăng mộ có ấm cúng sạch sẽ, kẻ viếng người thăm thì con cháu mới hạnh phúc an vui. 

 Lăng mộ - Tổ đường là ngọn nguồn huyết thống, là cái gốc của dòng tộc, chi phái.  Một bài học chúng ta thường thấy trong nông  nghiệp: Gốc nào  được chăm sóc chu đáo thì tốt cành xanh ngọn, hoa thơm trái ngọt, gió bão khó lung lay.  Ngọn nguồn nào được gìn giữ thì đất sạch nước thơm trong, vạn vật thấm nhuần tươi mát, người người quý trọng. 

Ý thức được điều đó, nhìn lại nhà thờ Họ đã hơn một trăm năm (kể cả thời kỳ Ngài Đô Thống chưa hiến cúng cho Họ), tuy có sửa chữa một vài lần nhưng nay đã xuống cấp, lại thêm trận lụt năm Kỷ Mão 1999, nước đã tràn ngập vào nhà thờ Họ gần 2 mét làm bàn ghế nghiêng ngã, quyển tộc phả bị ngâm nước đã mấy ngày, có một số bát nhang bị đổ vỡ, ai  nhìn thấy cũng xót xa trong lòng. 

Nhìn lại bà con, thấy phần nhiều còn nghèo khó, số đông con cháu Phái  Nhất vừa tái thiết nhà thờ Phái.  Con cháu  Phái Ba cũng vừa mới lập nhà thờ Chi, tốn kém cũng khá nặng, con cháu Phái Tư vừa mới tôn tạo nhà thờ Phái đang còn dang dỡ, nhưng không vì thế mà để Tổ đường Họ ủ dột, tường, ngói rêu phong, cột kèo rệu rã! Chúng ta không thể chỉ lo chăm sóc phần ngọn (Chi- Phái) mà quên mất cái gốc (nhà thờ Họ) gốc có vững, chi phái mới tồn vinh. 

Nhìn lại ngày xưa, Ông Bà mình đa phần là nhà tranh vách đất, ăn mặc thiếu trước hụt sau, thế mà lăng mộ Tổ Tiên đều kiên cố, Từ đường cũng ngói lợp tường xây, rồng bay phượng múa, án thờ sơn son thếp vàng chạm trổ công phu. 

Ngày nay tuy còn khó khăn, nhưng đa phần con cháu cũng khá hơn  nhiều so với Ông Bà thuở trước, không lẽ lại ngồi nhìn Tổ đường thâm u hoang phế!

Không, không, chúng ta không thể ngồi yên để cái gốc bị lung lay héo mòn Tổ Tiên tủi mặt. 

Qua  nhiều lần bàn bạc:

- Dù vật giá leo thang có tăng tốc

- Dù vật liệu có khó khăn khan hiếm

- Dù có gặp nhiều chướng ngại cũng đành chịu kham nhẫn

- Ta cứ quyết tâm sẽ thành

Thế rồi bức tâm thư được bay đi khắp bốn phương trời như một hồi chuông báo động, thì trong một thời gian ngắn bà con con cháu nội ngoại xa gần ở trong và ngoài nước đều nhanh chóng kề vai gánh vác.  Các nơi xa như Sài Gòn, Hà Nội, Nghệ An, Ban Mê Thuột đều cử người về thăm hỏi động viên, ở nước ngoài cũng điện thoại  thăm hỏi hằng tuần, thế nhưng mãi đến nay gần cả ba năm trời cũng còn một số đang còn gặp những khó khăn, hy vọng rằng số con cháu nầy tiếp tục hoàn thành nghĩa vụ của mình vì Tổ đường còn có nhiều công trình khác cần phải làm. 



II.             CHỈNH TRANG MỒ MẢ

Sau khi Tổ đường đã tôn  nghiêm  ấm cúng, chúng ta cũng cần phải chỉnh trang lại một số mồ mả, nhất là lăng mộ Ngài Thị Tổ, lăng mộ Ngài Đệ Nhị Tổ, lăng mộ Ngài Đệ  Tứ  đã gần rệu rã đổ  nát, cây cối phủ kín, chúng ta nên sớm trùng tu lại. 

Vì cuộc sống, nên đã có một số con cháu đi xa lập nghiệp mà mồ mả càng ngày lại càng nhiều; số con cháu còn lại ở quê nhà mỗi lần chạp mả càng ngày gánh càng nặng, mặc dầu gần mười năm nay số bà con con cháu ở Sài Gòn có gửi tiền về hổ trợ.  Với hiếu tâm sẵn có, hàng năm chúng ta nên tiết kiệm những chi tiêu không cần thiết, tích lũy lại lần lượt quy tập những mồ mả rải rác và cô tự vào một nghĩa trang, tất cả mả đất cần phải un đúc bằng xi măng.  Có được như thế, con cháu sau này nhẹ phần chạp mả, chỉ đến thăm viếng dâng hương và quét dọn sạch sẽ. 

Hằng năm đến ngày kỵ chạp, các vị Tộc trưởng, Phái trưởng, Gia trưởng nên hướng dẫn con cháu hầu thăm lăng mộ Tổ Tiên, nhất là lăng mộ Ngài Thị Tổ, Lăng mộ các Ngài đầu phái. 

Hiện nay đã có một số con cháu chỉ biết đến tham quan các lăng mộ vua chúa, các danh lam thắng cảnh mà chưa hề biết lăng mộ Ngài Thị Tổ, lăng mộ các Ngài Đầu Phái ở đâu!

Cội nguồn đất sạch nước trong

Gắng công gìn giữ mới mong báo đền



III.  KHUYẾN HỌC VÀ PHỤC HỒI NỀ NẾP GIA PHONG

Từ đường được tôn nghiêm ấm cúng, mồ yên mả đẹp, chúng ta còn phải lo nghĩ đến tương lai cho con cháu cũng là vấn đề cấp thiết. 

Chúng ta rất tự hào, Họ  Nguyễn Viết - Làng Dạ Lê Thượng đã bao đời văn võ song toàn, đức độ cao dày có địa vị lớn lâu dài trong xã hội qua nhiều chế độ khác nhau.  Nhưng vì cuộc chiến quá kéo dài nên sự học cũng như nề nếp gia phong ngày nay có phần suy kém. 

Có một hôm, ngồi kiểm điểm lại sự học của tất cả con cháu mấy năm gần đây ở quê nhà, chỉ thấy rất ít con cháu vào được đại học bởi hai nguyên nhân chính:

1.  Gia đình quá nghèo khó không đủ sức cung cấp phương tiện học tập cho con cháu, con cháu cũng phải vất vả lao động cùng gia đình để kiếm sống. 

2.  Học sinh ở thôn quê không đủ sức tranh tài cùng với học sinh thành phố, vì các trường thành phố có nhiều thầy cô giáo dạy giỏi.  Nhiều gia đình muốn gửi con cháu lên thành phố ăn học nhưng không đủ sức. 

Hiện nay chỉ có một số con cháu ở nước ngoài còn đủ điều kiện học tập và một vài gia đình sống được ở thành phố chỉ có vài ba cháu lên được đại học, còn ở thôn quê khó mà cất đầu lên nổi. 

Con cháu mà thất học nhiều, nề nếp gia phong bị xói mòn là một nguy cơ cho dòng tộc. 

Nhớ xưa, cha ông ta sống trong khói lửa đạn bom, ngày ngày ăn sắn ăn khoai, dành tiền cho con học ngày mai giúp đời, trước khi nhắm mắt cũng còn nhắc nhở con cháu cố gắng học hành tiến bộ nên người, thương yêu đoàn kết, đỡ đần giúp nhau, để xứng đáng là con cháu Nguyễn Viết Đại Tông. 

Ông cha ta đã chấp nhận mọi sự khắc khổ để quan tâm sự học hành cho con cháu sau này hiển vinh, có đủ khả năng góp phần xây dựng quê hương, chỉnh trang mồ mả, từ đường được tôn nghiêm ấm cúng. 

Cuộc sống ngày nay tuy còn khó khăn nhưng ổn định hơn trước nhiều, chúng ta không tiếp nối chí nguyện của Tổ Tiên là một sự thiếu sót vô cùng. 

Gắng sức cùng nhau tạo mọi điều kiện cho con cháu học tập nên người.  Mỗi gia đình phải có trách nhiệm phục hồi nề nếp gia phong.  Đó là một cách báo đáp thâm ân Tiên Tổ vô cùng cao quý. 



A.  Khuyến Học

Ai cũng biết rằng học vấn là chìa khóa mở đường cho công danh sự nghiệp, là vốn liếng quý giá để góp phần xây dựng cuộc sống cho bản thân, cho gia đình và xã hội được ấm no hạnh phúc, nhưng vì hoàn cảnh gia đình khó khăn và một phần vì  bậc cha mẹ hoặc người thân thiếu sự chăm sóc nên con cháu phải thất học. 

Vì thất học nên nghèo khổ, vì nghèo khổ nên phải thất học. 

Vì vậy cho nên tất cả các bậc làm cha mẹ cũng như những người lớn tuổi trong gia đình cần phải luôn luôn chăm sóc con em cháu chắt học tập, nên tiết kiệm chi phí trong các lễ nghi hoặc vận động con cháu khá giả hơn tạo một quỹ khuyến học để có phần thưởng cho con cháu trong các kỳ nghỉ hè, hoặc trong các ngày kỵ chạp hằng năm, vừa để tạo khí  thế động viên con cháu thi đua học tập vừa thể hiện tinh thần đoàn kết gắn bó thương yêu giúp đở nhau trong gia tộc. 

Ở ngoại tỉnh, tỉnh nào có con cháu đông cũng cần có vị đại diện Tộc, Phái vận động quỹ khuyến học để có những phần thưởng cho con cháu học tập tốt. 

Ở nước ngoài cũng thế, vị đại diện Tộc, Phái luôn luôn thăm hỏi, vận động quỹ khuyến học làm phần thưởng cho các con cháu vào dịp hè. 

Ở nước ngoài và các tỉnh trong nước cần phải tài trợ cho quỹ khuyến học ở quê nhà, vì ở quê nhà phần nhiều khó khăn mà lứa tuổi cắp sách đến trường lại khá đông, làm được như vậy, chúng ta giữ được sợi dây tình cảm thiêng liêng của huyết thống không bao giờ bị lạc lõng. 

Tùy theo quỹ khuyến học có được, mỗi nơi nên có hội đồng gia tộc chọn lọc những con cháu nghèo khổ mà chăm học (có giấy chứng nhận của nhà trường) để phân chia phần thưởng có hiệu quả hơn. 

Phần nhiều con cháu nhà nghèo rất hiếu học với một ước mơ mai kia mốt nọ thành tài để thoát được cảnh khốn cùng đã đeo đẳng bấy lâu nay nhưng chưa được giúp đỡ nhiều vì ở quê nhà ai nấy cũng nghèo khó cả. 

Chúng ta chịu khó dày công chăm sóc con cháu được học hành nên người khi thành đạt, tương lai của dòng họ sẽ rạng rỡ hơn. 

Chất chứa nghĩa nhơn, nghìn thuở thịnh

Trau dồi nhân đức, vạn đời hưng

Đó là kinh nghiệm quý giá của Tổ Tiên, chúng ta phải trân trọng ghi lòng. 



B.  Phục Hồi Nề Nếp Gia Phong

Gốc rễ có vững chắc

Gió bão khó lung lay

Chúng ta rất mừng là con cháu chúng ta chưa có người nào phạm pháp làm tổn hại đến danh dự  của dòng tộc mặc dù nền đạo lý đã bị xói mòn suốt nửa thế kỷ qua.  Đó cũng là nhờ cha ông chúng ta đã có một sự giáo dục con cháu rất chu đáo về luân thường đạo lý làm người, nỗi tiếng là một đại gia đình thế phiệt trâm anh, thế gia vọng tộc, sống rất có kỷ cương, hiếu - nghĩa - tình rất sâu đậm. 

Nhưng nếu chúng ta tự mãn mà không lo tiếp nối truyền thống tốt đẹp của cha ông để sớm giáo dục con cháu thì hậu quả chẳng lành khó tránh khỏi. 

Một gia đình không có kỷ cương, luân thường đạo lý bị mất mát là một điều bất hạnh, một tai họa khó lường.  Đó chỉ là một nhóm người sống hổn tạp chỉ biết tranh tụng nhau khác nào biến gia đình thành địa ngục trần gian. 

Thiết nghĩ rằng, muốn giáo dục con cháu có hiệu quả, trước hết, chúng ta phải tự giáo dục mình, những người lớn phải tự làm gương trước.  Tổ Tiên ta cũng thường nhắc nhở “Tu thân- Tề gia - Trị quốc - Bình thiên hạ” thật là chí lý vô cùng. 

Những khi lễ lượt trong gia đình, con cháu đông đúc, cha mẹ cần sắp xếp sao cho gọn gàng để con cháu có thì giờ ngồi chung lại.  Hạnh phúc nào hơn khi con con cháu cháu quây quần dưới mái ấm gia đình cùng nhau hàn huyên tâm sự.  Cha mẹ, những bậc đàn anh, đàn chị nên đem những kinh nghiệm sống, những điều hay lẽ phải trao cho nhau trong giờ phút này thật là tuyệt diệu. 

Tổ Tiên ta bày ra những lễ kỵ, chạp hằng năm không những thể hiện sự báo hiếu báo ân, tưởng nhớ đến công ơn cao dày của Tổ Tiên mà còn là một dịp để bà con, con cháu nội ngoại xa gần họp mặt thăm hỏi lẫn nhau, nhìn nhận nhau qua huyết thống Tông Tộc mà thương yêu đoàn kết, gắn bó tình cảm mỗi ngày mỗi sâu đậm trong đại gia đình ấm cúng hơn. 

Chúng ta hãy tịnh tâm thương yêu đoàn kết, kính trên nhường dưới đở đần giúp nhau, gắn bó lại tình cốt nhục kết thành lễ vật cúng dường Tiên Tổ rất có ý nghĩa và cao đẹp hơn cả mâm cao cộ đầy hoa thơm quả ngọt. 

Từ nay, trong mỗi kỳ kỵ chạp, Phái hoặc Họ, mỗi gia đình phải vận động con, dâu, rể, cháu tham dự đông đủ.  Chúng ta cũng phải sắp xếp thế nào để có thể có thì giờ tập họp con cháu lại trước tiền đường, sau khi lễ vật trên các bàn thờ đầy đủ, vị chánh bái niệm hương xong, nên có ít lời giáo huấn con cháu, hoặc cử người có uy tín gợi lại những tấm gương tốt, những ân đức cao dày của Tổ Tiên, hoặc nhắc lại lời dạy bảo của tiền nhân để con cháu ghi lòng, sau đó mới theo ngôi thứ vào lễ bái Gia Tiên.  Trong những phút thiêng liêng này có được cái khung cảnh như thế, sự giao cảm giữa người quá cố với những người còn sống tình cốt  nhục, huyết thống sâu đậm vô cùng. 

Có như vậy, thì những ngày kỵ - chạp  mới thật sự có ý nghĩa và có giá trị thiết thực về mặt tinh thần, một nét văn hóa đặc trưng cao đẹp mà các nước Tây phương hết sức ngưỡng mộ. 

Những gia đình ở phương xa, chúng ta cũng nên thường xuyên nhắc nhở những ngày kỵ, chạp, nên cố gắng sắp xếp cho con cháu thay nhau về dự lễ để có được một thời gian ngắn gần gủi với quê cha đất Tổ, sum họp với bà con họ hàng thân thuộc, giữ được tình huyết thống khỏi phải nhầm lẫn, sai phạm tệ hại khi có quan hệ với nhau, nhất là vấn đề nam nữ.  Những ai không về được, ở đâu hoặc đang làm việc gì, cũng nên dành năm ba phút tĩnh tâm hướng về cội nguồn thành kính tưởng niệm, nguyện cầu âm siêu dương thới, nghĩ đến bà con nội ngoại xa gần với sự cầu mong tất cả đều an lành hạnh phúc và thịnh vượng.  Ngày nay khoa học cũng đã xác minh về “thần giao cách cảm” dù xa xôi vạn dặm mà cũng gần nhau trong gang tấc, cùng chung huyết thống vẫn được giao cảm sâu đậm trong mỗi con cháu chúng ta.  Một  niệm tâm thành thì thông suốt cả trời đất. 

Ơn cội nghìn cành dáng lộc biếc

Nhớ nguồn trăm họ tỏa hương thơm

Tin chắc rằng Ơn Trên sẽ chứng minh gia hộ. 



C.  Trùng Tu Gia Phả, Tộc Phả

Trong những ngày gần đây, về từ đường Tộc xin thỉnh Gia Phả để tìm tư liệu viết bài cho tập Kỷ yếu nầy, xem kỹ thì thấy những thế hệ gần đây phần nhiều còn thiếu sót, thậm chí  có những người quá cố đã lâu cũng chưa ghi ngày tạ thế, một số đông con cháu đã có vợ có chồng cũng không biết vợ con tên gì, con gái gã chồng ở đâu.  Tôi còn nhớ cách đây năm sáu năm, Bổn Tộc  có thông báo rộng rãi mà chỉ có một số ít gửi về xin nhật tu.  Tình trạng hoang phế này kéo dài thì e rằng có những hậu quả chẳng lành khó mà lường được. 

Gia phả là căn bản của dòng họ lưu dấu tình máu mũ giúp cho người ta có cơ hội để tìm lại nhau, tìm lại nguồn gốc của dòng tộc. 

Trãi qua bao thời kỳ thăng trầm biến chuyển, con cháu phải lưu lạc rồi sinh sống khắp nơi, nhất là từ sau 1975 đến nay, đã có một số ra nước ngoài để sinh sống, rồi đời này sang đời khác cứ thế sinh cơ lập nghiệp tha phương, không khéo những thành phần này sẽ bị mất gốc khó mà truy nguyên khi hữu sự. 

Cây chung nghìn cánh sinh từ gốc

Nước chảy muôn giòng phát tự nguồn

Theo sách báo gần đây, người ta phát hiện được các hậu duệ của một vị hoàng tử lưu vong đời nhà Lý hiện đang sinh sống tại Hàn Quốc (Triều Tiên) có trên 200 gia đình. 

Trên 700 năm về trước, Hoàng Tử Lý Long Tường đã gia nhập quân đội Hàn Quốc rất có công khi chống trả  quân Nguyên (Mông Cổ) nên được chính quyền Hàn Quốc trọng đãi và tưởng thưởng xứng đáng. 

Trãi qua mấy mươi đời truyền lại cơ nghiệp, hàng con cháu họ Lý tại Hàn Quốc nhờ còn ghi gia phả mới truy nguyên được cố quốc của mình là Việt Nam ngày nay. 

Điều này chứng minh rằng gia phả, tộc phả đã đóng góp một vai trò rất quan trọng trong việc duy trì huyết thống chủng tộc. 

Hoàn cảnh chúng ta phức tạp gấp trăm lần nhà họ Lý năm xưa, con cháu chúng ta hiện đang sinh sống ở khắp nơi, ra nước ngoài cũng khá nhiều, mai kia mốt nọ, con trai có thể lấy vợ người nước ngoài, con gái cũng có thể lấy chồng người nước khác rồi sinh con, sinh cháu rải rác khắp nơi, nếu không có được gia phả, tộc phả, chẳng những không duy trì huyết thống chủng tộc mà còn mất gốc tông tộc nữa là khác. 

Trong dịp khánh thành Từ Đường Tộc, con cháu tề tựu đông đúc, chúng ta cũng nên kêu gọi con cháu lập danh sách những người thân còn sống cũng như đã quá cố để Bổn Tộc trùng tu gia phả, tộc phả được chu đáo hơn. 

Sau khi trùng tu gia phả, tộc phả xong, kể từ đó mọi gia đình khi có người quá cố, sinh con đẻ cháu hoặc cưới vợ cho con trai, gã con gái đi lấy chồng, đều phải trình báo đầy đủ về cho vị Trưởng Nhánh hoặc Trưởng Chi để các vị đó trình báo với Phái - Họ xin phép ghi vào gia phả tộc phả. 

Hằng năm, cùng lắm cứ ba năm một lần, Phái - Họ nên tổ chức trùng tu gia phả - tộc phả.  Có được như vậy may ra mới tránh được cảnh hoang phế như bấy lâu nay. 

Sắc thái cội cành thể hiện ở lá hoa

Tinh thần Tổ Tiên trường tồn trong con cháu

Tất cả con cháu chúng ta từ đời này qua đời khác thực hiện tốt những điều trên thì Chi, Phái được rạng rỡ, dòng họ Nguyễn Viết mãi mãi tồn vinh. 

Cúi xin Tiên Tổ thường gia hộ

Hạnh phúc bình an khắp mọi nhà

                                 

                             NGUYỄN VIẾT Ô MAI LUÂN



















           Chúng ta đem thâm tâm phụng sự Tổ Tiên, cùng thương yêu đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, chỉ có một ước mong Dòng Họ rạng rỡ, Chi Phái tồn vinh, gia đình hạnh phúc thì việc khó mấy cũng vượt qua, thành tựu nào cũng viên mãn.                                                                                                                                                                                                                 NGUYÊN NHƠN


















Vịnh Đề Địa Thế

TỪ ĐƯỜNG NGUYỄN VIẾT

Làng Dạ Lê Thượng



Từ đường Nguyễn Viết mãi tồn vinh

         Tiền thủy hậu sơn khá hữu tình          

Long chầu hổ phục tăng nhân kiệt

Phước địa trang nghiêm quả tựu thành



Dòng dõi lưu truyền thơm sử sách

Gia phong nề nếp đẹp ngày xanh

Con cháu đời đời luôn gắng sức

Vẹn toàn trung hiếu mới nên danh



NHẤT TỰ – DẠ NAM















   MỪNG NGÀY KHÁNH TIẾT



Ôi  thật hân hoan ngày khánh tiết

Từ đường tấp nập cháu con về

Tươi cười hớn hở mừng khôn xiết

Thăm hỏi chào nhau thật hả hê



Ôi thật hân hoan ngày khánh tiết

Khói hương lan tỏa kết tường vân

Hồn thiêng Tiên Tổ đà chứng giám

Tâm thành con cháu đáp thâm ân



Ôi thật hân hoan ngày khánh tiết

Cháu con nội ngoại họp sum vầy

Hàn huyên tâm sự nơi Đất Tổ

Hạnh phúc nào hơn hạnh phúc này



Ôi thật hân hoan ngày khánh tiết

Dạ Lê tràn ngập cháu con nhà

Bờ tre giếng nước con đường nhỏ

Muôn thưở tình quê vẫn đậm đà



NHẤT TỰ








Những tâm niệm

trong lúc  LỄ BÁI GIA TIÊN

                                                                      

Trước án thờ:

- Khi nhìn ánh nến lung linh, chúng con thấy được cội nguồn Tiên Tổ, cũng từ ánh nến đó, chúng con soi rọi lại bản thân, chúng con đang còn nhiều khuyết điểm. 

- Khi nhìn những làn khói hương lan toả, chúng con cảm nhận được danh thơm Tiên Tổ còn lưu lại, chúng con nhìn lại mình, chúng con vẫn còn lắm bụi dơ. 

- Khi nhìn chén nước trong, chúng con biết được ngọn nguồn trong sạch, chúng con tự nhủ cần phải bảo vệ môi sinh. 

- Khi nhìn lên các vật phẩm, chúng con biết được Tổ Tiên đã tốn biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt và cả xương máu mới có chỗ cho chúng con đứng giữa trời đất này. 

Hôm nay chúng con có được tấm thân này, chúng con biết được công ơn sinh thành dưỡng dục của ông bà cha mẹ thật vô cùng to lớn, dù trời cao biển rộng, đất dày cũng không sánh nổi, chúng con phải biết làm gì đây để đền đáp được một trong muôn ngàn công ơn ấy. 

Tuần hương đã gần tàn, chúng con thành tâm bái tạ những công lao cao dày và nguyện cầu mười phương chư Phật từ bi tiếp độ chư tôn linh Tiên Tổ Nội Ngoại vãng sanh lạc quốc, cầu xin hồn thiêng Tiên Tổ gia hộ cho con con cháu cháu nội ngoại xa gần an lành hạnh phúc và phát đạt.  Chúng con nguyện luôn luôn tự tu sửa mình và thương yêu đùm bọc dìu dắt lẫn nhau để xứng đáng là những đứa con hiếu thảo của Nguyễn Viết Đại Tông. 



NHẤT TỰ










Tổ Tiên phúc dày lưu hậu thế
Cháu con đức sáng rạng tiền nhân










 HẦU THĂM LĂNG NỘI



Chiều cuối năm hầu thăm lăng Nội

Lúc nắng vàng lướt nhẹ đồi hoang

Bên lăng Nội, mãi mê thầm lặng

Nhìn khói hương lan tỏa mây ngàn



Lơ thơ cồn cỏ gió đông lay

Văng vẳng đâu đây tiếng mọi ngày

Hay là hồn Nội về ấp ủ

Cách biệt âm dương đã bấy nay



Nghêu ngao  mục tử cỡi trâu về

Gà ai cất tiếng gọi hồn quê

Chuông chùa thong thả đâu vang vọng

Trống dục  bao người thoát  bến mê



Trước lăng Nội mãi xin cầu nguyện

Con con cháu cháu ở gần xa

Cúi xin Ơn Người thường gia hộ

Hạnh phúc bình an khắp mọi nhà



Chiều cuối năm Bính Tý 96

                                    NHẤT TỰ


TINH THẦN TIÊN TỔ

Trường Tồn Trong Con Cháu



Nhìn vùng đất bề thế của Từ Đường Phái I từ lộ giới Thượng Lâm cho đến Từ Đường Họ, người ta nghĩ rằng, trước đây các Ngài đã mấy đời quyền cao chức trọng mới tạo dựng được vùng đất đẹp đẽ như thế.  Người ngoài, người ta nghĩ thế cũng là chuyện thường tình, ngay cả một số con cháu ngày nay cũng chẳng mấy ai hiểu được, có chăng cũng chỉ lờ mờ mà thôi. 

Hồi còn nhỏ, tôi có nghe Ba Mẹ thường kể: “Bà Tổ Ngoại là một người rất giàu có, các con gái đều lấy chồng trong làng, chàng rể nào cũng nghèo khó cả.  Mỗi lần Bà đội nón ra đi, nếu người nhà thấy hỏi bà đi đâu thì Bà trả lời là ta ra đồng thăm ruộng.  Thế là Bà đi về hướng nào là người con gái ở hướng đó gặp may.  Trong số đó có lẽ Bà Đầu Phái của chúng ta được Bà Tổ Ngoại thương hơn hết.     Khi lớn lên, tôi mới được nghe nhiều người kể lại, Ngài Đầu Phái (đời thứ V) có chức phận lớn nhưng rất nghèo khổ.  Bà Tổ Ngoại (người họ Nguyễn Duy) mới cho tiền mua ruộng đất để canh tác thêm sinh sống qua ngày. 

Đến đời con trưởng của Ngài thừa kế, có chức phận lớn cũng chẳng tạo thêm một tấc đất nào mặc dầu phía Ngoại Tổ (Họ Lê Bá) cũng đã tận lực giúp đỡ.  Vì lòng nhân đạo, Ngài đã bán bớt một phần đất lấy tiền giúp các bệnh nhân nghèo khổ và nuôi con ăn học nên người. 

Kế đến Ngài Nguyễn Viết Hữu (đời thứ VII) người có quyền cao chức trọng thế mà khi lập gia đình, nhờ có Nhạc mẫu (Họ Nguyễn Công) giúp cho một ngôi nhà ván đem về dựng ở khu đất gần Giếng  Thành, đến khi Cụ Cố quá vãng, Ngài mới cúng ngôi nhà đó để làm nhà thờ Họ.  Ngài phải vào ở ngôi nhà ba căn hai chái của Cụ Cố trước đây, sau khi Ngài Nguyễn Viết Hữu quá vãng, căn nhà đó lại thâu hẹp một căn hai chái, bây giờ là nhà thờ Phái I đã qua nhiều lần sửa chữa.  Số ruộng đất đó hiện nay cũng còn khá rộng.  Sau năm 1975, Hợp tác xã tạm dùng một phần lớn đất đó để gieo mạ. 

Trãi qua mấy đời quyền cao chức trọng, do vì quá thanh liêm đức độ, cuộc sống chỉ đạm bạc, nhìn thì thấy có ruộng có đất, nhưng phần ruộng đất đó cũng nhờ ân đức cao dày của Tổ Tiên mới được thừa hưởng và giữ gìn mãi cho đến ngày hôm nay. 

     Tổ Tiên tích đức ngàn năm thịnh

     Con cháu nhờ ơn vạn đại vinh

Con cháu chúng ta nên noi gương đức độ của Tổ Tiên và giáo dục cho con cháu các thế hệ mai sau. 

     Đó là đạo hiếu cháu con

     Rạng danh vọng tộc nét son nếp nhà

             NGUYÊN NHƠN          





TỪ ĐƯỜNG NGUYỄN VIẾT



Từ đường Nguyễn Viết thật uy linh

Rồng vươn, phượng múa giữa trời thanh

Nền cao, cấp rộng lân quy phục

Phước địa trang nghiêm quả tựu thành

Lại thêm tiền thuỷ hương mùa lúa

Hậu sơn san sát luỹ tre xanh

Tả hữu Linh[1] - Châu[2]    hai đồi núi

Phối hợp cùng nhau khá hữu tình



Một vị khách vãng lai đề tặng



Thơ hoạ



Từ đường Nguyễn Viết quả  uy linh

Trầm hương lan toả giữa trời thanh

Đền đáp Tiền Nhơn khai sáng nghiệp

Hậu thế hôm nay dạ chí thành

Uống nước giữ nguồn thơm sạch mãi

Vun trồng cội đức vững thêm xanh

Cháu con đời đời luôn tạc dạ

Hiếu thuận trung kiên đậm nghĩa tình



NGUYỄN VIẾT Ô MAI LUÂN











GIA HUẤN



Muốn cho cơ nghiệp vững vàng

Cháu con cần phải siêng năng học hành

Trường đời nỗ lực đua tranh

Biết bao kinh nghiệm tốt lành truyền trao

Dù cho ăn cháo ăn rau

Vẫn cho con học để sau giúp đời

Vun trồng cội đức xanh tươi

Rạng danh vọng tộc sáng ngời thế gia

Sống cho đúng nét son nhà

Gia phong nề nếp tinh hoa giữ gìn

Phụng thờ Tam Bảo Tổ Tiên

Chí tâm thành ý trọn niềm hiếu trung

Những người độ lượng khoan dung

Ôn lương hiền thục hãy cùng quý trân

Bà con thân hữu xa gần

Thương yêu đoàn kết đỡ đần giúp nhau

Tâm không phân biệt nghèo giàu

Luôn luôn niềm nỡ trước sau đậm đà

Những điều xấu ác lánh xa

Những điều tốt đẹp thiết tha chăm làm

Kiên nhẫn vốn quý hơn vàng

Gian nan khổ nhục muôn ngàn cũng qua

Anh em con cháu thuận hoà

Kính trên nhường dưới nhà nhà yên vui

Noi gương Tiên Tổ bao đời

Tu nhân tích đức rạng ngời gia phong

Cội nguồn đất sạch nước trong

Gắng công gìn giữ mới mong báo đền

Con người chí hiếu thì nên

Quyết tâm cầu tiến thánh hiền giúp cho

Mấy điều tâm huyết dặn dò

Con dâu rể cháu chăm lo phụng hành



Xuân Bính Tuất 2006

Phước Hải  Ô MAI LUÂN




Tưởng niệm

THÂM ÂN PHỤ MẪU





Nhớ khi phụ mẫu sinh thời

Lên vườn xuống ruộng suốt đời gian truân

Da Thà, Khe Tắm, Rột Khôn

Thức khuya dậy sớm với đồng Dạ Lê

Dấu chân in khắp đường quê

Quanh năm suốt tháng không  hề oán than

Đến khi chiến sự lan tràn

Mấy lần nhà cửa điêu tàn thảm thay

Rau rìu, rau éo, rau trai

Rau khoai, rau muống sơ sài muối dưa

Cuộc đời giải nắng dầm mưa

Năm qua tháng lại sớm trưa mõi mòn

Nỗi lòng nhớ cháu thương con

Đèn khuya hiu hắt gió lồng trêu ngươi

Đêm đêm khấn nguyện Phật Trời

Cầu cho con cháu sống đời thới lai

Ngày ngày ăn sắn, ăn khoai

Nuôi con ăn học ngày mai giúp đời

Tuổi già cũng chẳng nghỉ ngơi

Việc Họ, việc Phái thảy thời chăm lo

Đến khi dầu đã cạn khô

Vẫn cùng con cháu dặn dò khuyên răn

Nhớ lời Người đã dạy rằng:

“Cháu con cần phải siêng năng học hành























Sống cho có nghĩa có nhân

Thương yêu- Đoàn kết- Đỡ đần giúp nhau

Hiếu trung hai chữ đứng đầu

Phụng thờ Tam Bảo, Tổ Tông cho tròn

Hết lòng vì nước vì non

Tình làng nghĩa xóm sắt son yêu vì

Đường đời dù có gian nguy

Tinh cần- nhẫn nhục lo gì thành công

Ngại chi những sự thiệt hơn

Gieo trồng phước đức tử tôn được nhờ ”





Hôm nay,

Con, dâu, rể, cháu sum vầy

Cũng nhờ ơn đức cao dày Tổ Tông

Giờ đây đốt nén hương lòng

Kính dâng Phụ Mẫu muôn vàn tri ân



Ô MAI LUÂN










Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời  không ai khổ bằng Cha
Nước biển mênh mông không đong đầy tình Mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công Cha
Tần tảo sớm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn
Mang cả tấm thân gầy Cha che chở đời con
Ai còn Mẹ  xin đừng làm Mẹ khóc
Đừng để buồn lên mắt Mẹ nghe không....







TƯỞNG NHƯ ĐÙA                                                         

Trong một buổi họp con cháu để bàn việc tái thiết nhà thờ Họ, sau một hồi bàn thảo, thì sự chi phí cũng từ ba đến bốn trăm triệu, tính ra thì mỗi con cháu nội ở địa phương phải gánh từ một triệu đồng, con cháu ở phương xa phần nhiều khá giả cũng phải từ ba triệu đồng trở lên. 

Vấn đề tái thiết nhà thờ Họ, đa số con cháu đều mong muốn, nhưng khi nghe đến sự đóng góp có phần nặng nề, có một số cũng le lưỡi lắc đầu. 

Tôi mới đề nghị:  Kể ra trong thời buổi còn khó khăn, với sự đóng góp như thế cũng có người không kham nỗi, nhưng cứ quyết tâm rồi cũng thành tựu được, bắt đầu từ nay, mỗi người trong chúng ta thực hiện như thế này. 

Hàng ngày, chúng ta nên giảm ăn thịt cá, giảm hút thuốc, giảm hoặc bỏ bia rượu, sự tiết giảm đó, mỗi ngày có thể tích luỹ được tối thiểu cũng được 5.000 đồng, trong mỗi tháng có được 150.000 đồng.  Chỉ trong một năm chúng ta có được 1.800.000 đồng, thừa sức để thực hiện nghĩa vụ của mình. 

Thực hiện được những điều đó, mỗi chúng ta có ba điều lợi:

1.  Thể hiện được tinh thần hiếu đạo với Tổ Tiên

2.  Giữ được sự an bình cho gia đình và xã hội

3.  Giữ gìn được sức khoẻ cho bản thân mình



Khi nghe đến đây, tất cả đều cười rộ lên, tưởng như tôi nói đùa!

Tôi nghe một số con cháu xôn xao thắc mắc:

Từ xưa đến nay chưa nghe ai nói giảm ăn giảm uống mà lại giữ gìn sức khoẻ, chắc chú nói đùa vậy thôi!

Tôi phải một hồi giải thích:

Quả thật vậy, chớ có đùa đâu!

Muốn thoả mãn cho ba tấc lưỡi, chúng ta phải ăn nhiều cá nhiều thịt tất nhiên phải tốn nhiều tiền, nhưng có ngờ đâu chính tự mình mang bệnh vào thân mà không hay, nhất là  thịt động vật có chứa rất nhiều độc tố mà lại khó tiêu.  Khó tiêu thì chất độc tích tụ trong cơ thể, mầm mống của nhiều bệnh ung thư nguy hiểm. 

Từ lâu các danh y trên thế giới đã bảo rằng: “ăn cho no đầy bao tử, nhất là ăn nhiều  thịt, thì một nửa để nuôi thân còn một nửa lại là nuôi bệnh, nuôi mấy ông thầy thuốc gây nên thâm hụt ngân sách gia đình. 

Bia rượu là con dao hai lưỡi, nếu lạm dụng quá độ không ra nghĩa địa cũng vào nhà thương, lại lắm khi gây tại hoạ cho gia đình và xã hội, điều đó đã thường xảy ra. 

Còn thuốc lá là thứ độc hại vô cùng nguy hiểm mà lâu nay toàn thế giới đã báo động!!! Vì sẽ gây nên bệnh ung thư phổi.  Trong gia tộc ta đã có nhiều người lâm phải bệnh nan y này và đã ra đi trong sự thương tiếc của con cháu, thân bằng quyến thuộc. 

Đó là những điều chú nói thật mà các cháu lại tưởng như đùa!

                                                         

                                                                         NHẤT TỰ





DẠI HAY KHÔN







Biết mà không làm

Đắc tội với non sông

Thấy khó làm ngơ

Hổ thẹn với cha ông

Bắt tay vào việc

Ôi! Sao đời lắm chuyện

Phủ phàng châm biếm

Xoi xỉa  mãi chất chồng

Không làm không lầm

Không lỗi không sai sót

Lại được chê bai

Mai mỉa cũng sướng mồm

Ai cũng muốn khôn

Thôi mình đành chịu dại

Dại mà có ích

Còn hơn lắm kẻ khôn



NHẤT TỰ


Toạ đàm

               CỦA AI?    

Trong một buổi kỵ Tổ, con cháu nội ngoại xa gần tề tựu cũng khá đông đủ, để thể hiện lòng hiếu thảo của mình, kẻ đóng tiền, người góp gạo, người này mang rau quả, người kia mang hương hoa đến kỵ Tổ. 

Sau lễ xong, con con cháu cháu quây quần ăn uống rất vui vẻ. 

Tôi lên tiếng tán dương:

- Năm nay con cháu nội ngoại gần xa về khá đông đủ lại mang theo nhiều vật phẩm rất tốt tươi để kỵ Tổ, nhất là gạo mới cơm rất ngon. 

Nghe được khen, liền có một cháu lên tiếng:

- Dạ thưa chú, gạo của cháu đó, lúa gặt đầu mùa cháu mới xay ra để dành kỵ Tổ. 

Tôi hỏi tiếp:

- Thế thì mớ rau của ai mang đến mà xanh tươi như thế?    

Một cháu từ dưới bếp vọng lên:

- Dạ thưa bác, rau của cháu trồng ở vườn đó, nhờ đất tốt, không phân  không thuốc gì hết, thế mà rau xanh tốt như rứa đó. 

- Còn mấy nải chuối kia ai trồng mà đẹp thế?    

Thì có một cháu ngoại lên tiếng:

- Dạ thưa cậu, chuối của cháu mang đến đó.  Chuối của cháu thơm ngon lắm đó, chính do bàn tay của ba cháu trồng trên mảnh đất của ngoại để lại lúc ba cháu còn sống. 

- Vậy còn trái mít này ai trồng mà thơm ngon thế?    

Thì có một cháu trai đứng dậy. 

- Dạ thưa ôn, trái mít đó là của cháu, cháu hái từ cây mít của ông nội còn sót lại may có cha cháu chăm sóc kỹ nên trái vẫn còn nhiều. 

- À, còn mấy quả cau kia ai mang đến mà xinh thế?    

- Dạ thưa anh, cau của em trồng ở vườn đó, hồi bà nội còn sống đã săn sóc chu đáo nên cau sây trái lắm. 

Từ nãy giờ ai cũng nói những lễ vật ấy do công lao của mình tạo ra, hôm nay mang kỵ Tổ, điều đó tôi chỉ thấy có đúng được một phần tư mà thôi.  Vậy thử hỏi bà con, những của này chính là của ai, nhờ đâu mà có?    

Khi nghe hỏi như thế thì ai nấy đều ngạc nhiên cả, một hồi lâu mới có một vài người nói:

- Trong công lao của mình nhờ có sương, có nước, mưa nắng

Một người khác thêm vào:

- Có phân, có cả giống tốt v.v... 

Tôi bảo: Đúng là nhà nông chuyên nghiệp (tất cả đều cười).  Như thế thì chỉ thêm được một phần tư nửa mà thôi!

Nhìn xa hơn, những của này chính là nhờ mồ hôi nước mắt và cả xương máu của Tổ Tiên nhiều đời mới có! Thử hỏi: nếu không có xương máu của Tổ Tiên nhiều đời đổ ra để bảo vệ non sông đất nước, nếu không có mồ hôi nước mắt của Tổ Tiên nhiều đời đổ ra biến đất cằn cỗi thành ruộng vườn phì nhiêu thì làm gì chúng ta có được những của này?     Và ngay trong hiện tại, nhìn cho kỹ cũng có Tổ Tiên Ông Bà trong mỗi chúng ta tiếp tục làm ra những vật phẩm này!

Khi nghe đến đây, tôi thấy có một số người toát cả mồ hôi, bên cạnh đó cũng có một số người hai cặp mắt từ từ rơi lệ!!!

Một bà chị xúc động nói:

- Ôi! Công lao của Tổ Tiên thật vô cùng vô tận, thế mà người đời cứ nghĩ đó là của mình, riêng mình thật là đắc tội với Tổ Tông!

Một cô em góp ý:

- Tôi còn nhớ ngày xưa, ông bà mình, quý bác, quý thím, quý o...  mỗi khi mang vật phẩm đến nhà thờ đều trình thưa với ông Trưởng rằng: kính thưa Ông hay Bác v.v...  Cũng nhờ ơn trên (hoặc Tiên Tổ) chúng em hoặc chúng cháu v.v...  có chút vật phẩm này, mang đến kỵ Tổ hoặc Bà, hay mỗi khi hỏi thăm nhau, ai cũng nói rằng:

Dạ, cảm ơn Bác hoặc Chú v.v...  cũng nhờ ơn Tiên Tổ, Trời, Phật gia hộ nên mạnh khoẻ luôn hoặc làm ăn cũng đủ tạm qua ngày. 

Một cháu gái phụ hoạ vào:

- Với những ngôn từ văn chương lễ giáo đậm đà đạo vị ấy ngày nay nghe thấy cũng rất hiếm. 

Một cháu trai góp ý thêm:

- Còn trong gia đình, mỗi khi có cơm mới đầu mùa hoặc hoa quả đầu tiên đều đem cúng Gia Tiên trước, hay mỗi khi con cháu mới ra làm việc, tháng lương lãnh đầu tiên, trước hết cũng trích ra một ít mua sắm lễ vật dâng cúng Gia Tiên để tạ ơn rồi sau đó mới tiêu dùng. 

Đẹp thay, quý thay, lòng hiếu thảo con cháu, thế mà ngày nay lắm kẻ đã bỏ quên! Đạo lý uống nước nhớ nguồn coi chừng bị mai một!!!

Để xứng đáng là con cháu của Nguyễn Viết Đại Tông.  Tôi rất thiết tha mong mỏi tất cả bà con hãy cố gắng:

Sống cho đúng nét son nhà

Gia phong nề nếp tinh hoa giữ gìn

Tình người hiếu – lễ vi tiên

Quý hơn vàng bạc của tiền đầy kho. 

NHẤT TỰ














Lòng thành con cháu hằng năm nhớ ngày kỵ Tổ
Đức sáng Tổ Tiên đời đời còn dấu anh linh













NGUYỆN CẦU





Đêm đêm đốt nén tâm hương

Ngày ngày giữ giới cúng dường Thế Tôn

Cầu cho đạo pháp trường tồn

Chúng sanh hết thảy không còn khổ đau

Nương theo Phật Pháp nhiệm mầu

Năm vóc sát đất đê đầu cầu xin

Cầu cho liệt vị Tổ Tiên

Vãng sanh Lạc Quốc Tây Thiên Di Đà

Cầu cho con cháu gần xa

Người người hạnh phúc nhà nhà bình an

Cầu cho tất cả xóm làng

An cư lạc nghiệp giàu sang thái bình

                                                        

NGUYÊN NHƠN                                              






HƯỚNG ĐẾN TƯƠNG LAI





Nhờ hiếu tâm của tất cả bà con nội ngoại xa gần trong cũng như ngoài nước đã tích cực đóng góp người  công kẻ của để tái thiết Tổ đường Họ đến nay đã thành tựu viên mãn, ai ai cũng vui mừng phấn khởi. 

Thiết nghĩ rằng, chúng ta cũng không cầu mong cho ngôi Tổ đường bền vững như lâu đài thành quách của các bậc đế vương, vì lâu đài thành quách của các bậc đế vương dù có bỏ ra biết bao nhiêu tiền của và nhân lực để xây dựng cho kiên cố đến mấy cũng có ngày lụi tàn, bởi định luật vô thường hể có hình tướng là có hoại diệt theo năm tháng, ngôi Tổ đường có bền lâu hay mau là do sự hiếu tâm, hiếu học và đạo đức con người quyết định. 

Chúng ta chỉ có ước mong cho mọi người, mọi nhà biết chăm lo giữ gìn nề nếp gia phong cho vững chải, chăm lo tu tập để có được những phước đức cao dày toả sáng thì Chi, Phái được rạng rỡ, con con, cháu cháu chăm chỉ học hành mỗi ngày một tiến bộ, có nhiều kẻ đỗ đạt cao, tài đức trí dũng vẹn toàn thì Dòng Họ được tồn vinh. 

Có được như vậy, thì mai kia mốt nọ Tổ đường càng ngày càng đổi mới, rộng lớn và tôn nghiêm hơn bội phần. 

Học vấn là chìa khóa mở đường tiến tới vinh quang tiến bộ. 

Luân thường đạo lý là nền tảng của nếp sống văn minh cao đẹp, là cội nguồn của hạnh phúc bình an, là chiếc thuyền đưa chúng ta đến bờ Chân- Thiện- Mỹ. 

Muốn đạt được những ước mong đó, tất cả chúng ta đều có trách  nhiệm và bổn phận:

-Tạo mọi điều kiện để cho con cháu học hành đến nới đến chốn. 

- Tìm mọi cách bồi dưỡng đạo đức cho con cháu để khỏi rơi vào những tệ nạn xã hội hiện đang trầm trọng  mà các thông tin đại chúng đã nhiều lần báo động. 

- Nhắc nhở con cháu đến dâng hương đầu năm tại các nhà thờ Tộc - Phái nội ngoại đôi bên (nếu quá xa thì nhớ lễ vọng Gia Tiên tại gia đình hoặc các chùa lân cận), hầu thăm các vị cao niên trong dòng tộc, các vị ân sư, sau đó lần lượt đến thăm các thành phần khác. 

- Tối kỵ việc bỏ phế gia đình trong ba ngày Tết để đi du lịch mà để bàn thờ Gia Tiên hương tàn bàn lạnh. 

- Khi con cháu lớn khôn, cha mẹ phải dẫn con cháu hầu thăm Tổ đường, lăng mộ Tổ Tiên Ông Bà nội ngoại hai bên. 

- Những con cháu ở quá xa, ít nhất là từ 2 dến 3 năm phải thay nhau về quê kỵ chạp Phái, Họ một lần, Trưởng Họ, Trưởng Phái nhớ nhắc nhở con cháu đến hầu thăm lăng mộ. 

- Cầu xin Tổ Tiên Ông Bà gia hộ trước khi đến chùa đến miếu khi hữu sự.  Ở đâu linh thiêng cho bằng Tổ đường Tộc, Phái, bàn thờ Gia Tiên, nơi cội nguồn huyết thống.  Tổ Tiên bao giờ cũng gia hộ cho con cháu trước Phật, Thánh, Thần linh. 

- Nếu chưa đủ thuận duyên cúng chay được thì nên hạn chế tối đa việc sát sanh trong các lễ kỵ chạp, phải yêu thương đoàn kết, khuyến khích tạo nhiều phước đức để hồi hướng cho Chư Tôn linh Tiên Tổ sớm vãng sanh Lạc quốc là điều kiện tối cần hơn cả. 

- Hạn chế tối đa bia rượu trong các lễ kỵ chạp để tăng cường cho quỹ khuyến học, tránh say sưa đối chọi nhau mất đoàn kết.  Nói năng đi đứng nhỏ nhẹ để giữ sự tôn nghiêm nơi thờ tự. 

Muốn  thực hiện các điều trọng yếu trên đạt được nhiều hiệu quả tốt, các bậc cha mẹ, người lớn phải là tấm gương sáng để con cháu noi theo. 

                                                       NGUYỄN VIẾT Ô MAI LUÂN
















Tổ Tiên đời đời vun trồng cội đức
Cháu con ngày ngày hằng nguyện tu tâm























































NHỚ NGÀY KỴ TỔ





Dù cho sinh sống nơi đâu

Nhớ  ngày kỵ Tổ rủ nhau cùng về

Hiếu tâm lưu luyến tình quê

Hương đồng gió nội bờ tre cúi chào

Bà con ai cũng ước ao

Về quê sum họp vui nào vui hơn

Tổ đường nguồn cội tình thương

Thấm nhuần huyết thống miên trường không  phai

Kỵ Tổ Mười Sáu Tháng Hai

Cháu con hiếu thảo linh đài ngát hương





Nhất Tự  NGUYỄN VIẾT Ô

 





 Một vài suy niệm

Về việc  CẦU AN



Cứ mỗi lần bước sang một năm mới, mọi người thường nghĩ đến chuyện cầu an; kẻ đến nhà thờ, người đến đền miếu, chúng ta thì đến chùa lễ Phật mong nhờ Phật lực gia hộ cho một năm mới mọi sự đều được an lành hạnh phúc, dồi dào sức khỏe, gia đình hưng thịnh v.  v… Hoặc khi trong gia đình có người thân lâm trọng bệnh hay gặp phải những điều không may, cũng thường thiết lễ cầu an để nhờ ơn trên gia hộ cho bệnh tình sớm bình phục, tai qua nạn khỏi.  Những việc làm như thế cũng có linh nghiệm tốt nhất thời về mặt tâm lý, xem như đã chữa được phần ngọn. 

Cần thiết nhất chúng ta nên tìm chữa tận gốc, hay hơn hết là phòng bệnh hơn chữa bệnh.          

An nguy- Bệnh hoạn- Nạn tai

Từ đâu mà có mấy ai liễu tường. 

Mỗi lần gặp những điều không may, người đời thường cứ nghĩ tại thế này, tại thế kia, từ bên ngoài đưa đến chứ ít ai tự nhận lấy những nghiệp nhân do mình đã tạo. 

Chư Phật cũng đã thường dạy:

Nhất thiết duy tâm tạo

Tâm chơn thì thế giới phẳng lặng

Thế giới phẳng lặng thì cực lạc hiện bày

Tâm vọng thì thế giới tung hoành

Thế giới tung hoành thì địa ngục từ đây mà có

Do đó:

An hay nguy cũng do tâm mình tạo, thánh hay phàm thì cũng do tâm mình mà ra, gieo nhân lành thì gặp quả tốt, làm việc bất thiện thì gặp phải lắm điều tai ương.  Sân si, nói điều hung ác thì họa đến trùng trùng, nhẫn nhịn được thì thiên tai vạn họa nhất tề tiêu, cho nên các hàng Bồ Tát thì sợ nhân còn chúng sanh thì sợ quả. 

Những linh ứng vi diệu đều do tâm thức tự tạo, làm những điều lành thì thân tâm an nhiên tự tại, làm những điều tàn ác xấu xa thì ngày đêm lo lắng bồn chồn; nếu không chịu ăn năn sám hối thì việc cầu an chỉ là vô nghĩa, Phật, Thánh, Trời, Đất, Quỉ, Thần bao giờ cũng che chở gia hộ cho những kẻ hiền lương đức độ.  Sát sanh hại vật cúng tế thần linh thì chỉ rước thêm tai họa mà thôi. 

Bệnh hoạn: Ngoại trừ các bệnh truyền nhiễm, môi sinh môi trường uế tạp hay làm việc quá sức, còn hơn 70% là do tự mình mà có: tham lam dục lạc, ăn uống không điều độ hoặc thiếu sự thoải mái; quá thiếu hoặc quá thừa chất bổ dưỡng, lại hay thường dùng những chất cay nóng như rượu cao độ, tiêu ớt, những thứ khó tiêu như thịt động vật, dầu mỡ, nhai không kỹ v.  v…; về mặt tinh thần thì tính sân si nóng giận, buồn phiền, thường làm cho tim gan bị rối loạn bầm tím, tỳ vị bị khắc chế nên bao tử lỡ loét

Các nhà khoa học đã nuôi hai chuồng thỏ để thí nghiệm. 

Một chuồng cho ăn uống điều độ thoải mái. 

Một chuồng cũng cho ăn uống đầy đủ nhưng luôn luôn bị chọc tức kích động. 

Sau ba tháng đem khám nghiệm, những con thỏ sống thoải mái an tịnh thì mạnh khỏe, còn những con thỏ hằng ngày bị chọc tức thì bao tử đều bị lở loét, thận suy gan yếu.  Cũng như sau những cuộc chiến ác liệt kéo dài, phần nhiều dân chúng hay bị bệnh bao tử, thận suy gan yếu bởi lẽ do quá sợ hãi lo lắng hay đau xót trước sự mất mát người thân và của cải trong những lúc giao tranh.  Thật đúng như người đời thường nói: buồn thúi ruột, giận bầm gan tím mật, sợ hãi thiếu đường té đái, đứng tim, đủ chứng tỏ rằng sự an tịnh tâm hồn rất cần thiết cho cuộc sống. 

Nạn tai: Người đời thường nghĩ rằng ma quỉ chỉ ở những nơi am miếu, hoặc những nơi cây cối âm u, chứ đâu có biết rằng trong mỗi chúng ta có rất nhiều nội ma trú ngụ, từng giây từng phút nó bắt chúng ta phải phục dịch mà không hay, đến khi lớn mạnh thì thâm tâm cảm thấy bồn chồn, đúng như trong truyện Kiều cụ Nguyễn Du đã nói:

“Vậy nên những chốn thong dong

Ở không yên ổn ngồi không vững vàng



Ma đưa lối quỉ dẫn đường

Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”



Đi đâu?     Chắc chúng ta cũng đã biết:

Người nào có ma men lớn mạnh thì nó dẫn đến những nơi có bia rượu; thế rồi không bệnh hoạn cũng nạn tai, không ra nghĩa địa cũng vào nhà thương, lắm lúc còn gieo tai họa thảm khốc cho bao kẻ khác. 

Người nào có ma đỏ đen lớn mạnh thì nó dẫn đến những sòng cờ bạc thâu đêm, thế rồi không tổn hại sức khỏe cũng tan gia bại sản, nợ nần chồng chất. 

Người nào có ma nghiện ngập lớn mạnh thì nó dẫn đến xì ke ma túy; thế rồi thân tàn ma dại, bại hoại gia phong; giống dòng tàn rụi. 

Người nào có ma gian tham lớn mạnh thì bắt nghĩ đến trăm mưu nghìn kế để chiếm đoạt của người khác, thế rồi không bị tử hình cũng tù chung thân; như những vụ án tham nhũng nghiêm trọng nhất, số phạm nhân đông nhất của đầu thiên niên kỷ 21 đã để lại những dấu ấn xấu cho đời, tổn thương đến danh dự của dòng tộc, làm cho con cháu buồn tủi xấu hổ bởi lẻ “ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. 

Người nào có ma sân hận si mê lớn mạnh thì thân tâm làm sao yên ổn được, cứ luôn luôn tìm cách báo thù đối phương, thế rồi “oán oán chập chùng” chẳng bao giờ dập tắt được, lắm lúc đã làm cho trăm họ phải điêu linh. 

V..  v...  và v..  v... 

Có thể nói rằng, trong mỗi chúng ta có đến hàng vạn ma chướng khá nguy hiểm, rất buồn cười thay ít kẻ sợ lại sợ những thứ ma vớ vẫn bên ngoài! Lắm khi trong gia đình có người thân lâm bệnh nặng trong đêm, cần phải đi mời thầy thuốc gấp lại sợ phải đi qua nghĩa địa hay am miếu, nhưng đến khi các thứ ma trong mình sai xử thì đêm hôm mưa gió cũng lội, lạnh lùng cũng đi!

Những người không làm chủ được bản thân mình, không tự chiến thắng mình, phước mỏng đức sơ thì luôn luôn bị ma đẩy đưa vào những tai họa khó lường, đến lúc đó, dù của lắm tiền nhiều, khóa năm bảy lớp thế mà nó cũng lần lượt đội nón ra đi! Ví dụ như kẻ say rượu lái xe gây tai nạn chết người, lẽ đương nhiên luật pháp bắt buộc phải bồi thường hoặc thua cờ dại bạc phải bán cả gia sản đề trả nợ v..  v…

Cũng may thay, trong mỗi chúng ta đều có Phật tánh. 

Đức Phật cũng đã thường dạy:

    Ta là Phật đã thành

    Các người là Phật sẽ thành

Chúng ta phải luôn luôn phòng hộ ngũ căn giống như đứa trẻ chăn trâu đừng để ăn lúa mạ của người, phải luôn luôn tụng kinh niệm Phật, sám hối, quán tứ vô lượng tâm, phóng sanh bố thí cúng đường v..  v… lấy công đức nuôi dưỡng Phật tánh.  Phật tánh càng lớn mạnh thì ma quân khó mà sai xử con người đến chỗ tai họa. 

Các Thầy Tổ cũng thường dạy:

Chư ác mạc tác

Chúng thiện phụng hành

Tự tịnh kỳ ý

Thị chư Phật pháp



Có nghĩa là:

Chớ làm các điều ác

Tinh tấn làm các điều lành

Luôn luôn giữ tâm ý thanh tịnh

Đó là lời Phật dạy



Hằng ngày cứ mỗi buổi sáng thức dậy, chúng ta nên tự phát nguyện:

    Quyết không làm các điều xấu ác,

    Thân luôn luôn làm các điều lành

    Miệng luôn luôn nói các điều lành

    Ý luôn luôn nghĩ đến các điều lành

Và luôn luôn giữ thân-miệng-ý hằng thanh tịnh nguyện cầu cho tất cả chúng sanh muôn loài được an lành, đồng thời cũng nguyện cầu cho âm linh vãng sanh lạc quốc, có được như thế, chúng ta đã tạo được những công đức rất lớn sẽ được Phật thánh phò trì, thần linh che chở, sở cầu mãn nguyện chúng ta sẽ có được. 

    Ngày an lành, đêm an lành

    Đêm ngày sáu thời đều an lành

Tất cả các thời đều an lành

Dù cho hoàn cảnh nào cũng được an nhiên tự tại thong dong tháng ngày, dù cho hằng năm có gặp những sao hạn xấu như:

    Kế Đô có xô cũng không bỗ

    La Hầu quả tạ có búa cũng bằng không

Cổ nhân cũng thường nói:

“Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”

Cho nên:

    Tướng bất cập số

    Số bất cập đức

    Đức năng thắng số

Thật là chí lí vô cùng

*

*    *

Còn muốn cầu phước cầu lộc cầu thọ thì ông cha ta cũng thường nhắc nhở: “giảm mặc tăng phước, giảm ăn tăng thọ, giảm ngủ tăng lộc”, hàm ý rằng không nên đua đòi  ăn mặc cao sang  quá tốn kém, dành tiền tiết kiệm đó để làm những việc thiện như bố thí, phóng sanh, cúng dường thì phước lần lần hiển lộ, gieo nhiều phước lành thì tăng thọ, còn muốn có lộc thì giảm ngủ mà tăng thêm giờ làm việc để thêm của cải đó là tài lộc do tự mình siêng năng mà có mới  bền vững, còn tài lộc mà bất nghĩa chỉ là chữ tài liền với chữ tai một vần  nào có khác chi. 

Chúng ta đến chùa lễ bái nhằm mục đích quán tưởng những đức tính tốt đẹp của Như Lai, tụng kinh niệm Phật để ôn lại những lời vàng ngọc mà Đức Phật đã dạy để thực hành theo. 

Chư Phật đã gia hộ cho chúng ta bằng vô vàn giáo lý thậm thâm vi diệu- những ai thực hành theo thì thoát khổ được vui, tai qua nạn khỏi, gia đình hưng thịnh. 

Tổ Tiên của chúng ta cũng hấp thụ được giáo lý của Chư Phật mà có nhiều phước đức để lại cho chúng ta hưởng- thì hôm nay chúng ta cũng cố gắng tiếp tục tạo nhiều phước lành không những cho chúng ta có được cuộc sống an lạc mà còn để lại cho con cháu mai sau- đem lại an vui hạnh phúc cho gia đình - xã hội và tất cả chúng sanh muôn loài. 

Tổ Tiên đời đời vun trồng cội đức

Con cháu ngày ngày hằng nguyện tu tâm

Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, dù xa hay gần, tất cả mọi động tĩnh đều ảnh hưởng đến nhau cả:

Mình yên- chung quanh không yên- mình sẽ không yên

Mình không yên- chung quanh yên- mình cũng sẽ yên

Cho nên việc cầu an chỉ có một niệm tâm thành hướng về Tam Bảo-Tổ Tiên sám hối các nghiệp tội đã gieo từ trước, cầu xin gia hộ cho tất cả mọi người thân tâm dũng mãnh:

Bỏ những điều xấu ác-Nguyện làm các điều lành

Cội đức hằng bồi đắp-Phước huệ gắn song tu

Đồng thời cũng cầu nguyện cho:

Đạo pháp trường tồn-Quốc thái dân an

Thế giới hòa bình-Chúng sanh an lạc. 

Cầu an đúng pháp như thế, sở cầu mãn nguyện:

Tai nạn tiêu trừ - Căn lành tăng trưởng

Gia đình hưng thịnh - hạnh phúc bình an.     



NGUYÊN NHƠN




























Sống từ bi phước sanh vô lượng
Hành hỉ xả diệt tội hà sa





















THẢM HỌA MA TÚY



Ma túy tai họa khó lường

Thân tàn  ma dại gia đường nát tan

Lại thêm dòng giống lụi tàn

Vui chi chốc lát muôn ngàn khổ đau

Công cha nghĩa mẹ ân sâu

Không lo đền đáp còn đâu tình người

Làm người chẳng biết hổ ngươi

Sống thừa chết dở người đời khinh chê

Những ai dại dột say mê

Mau mau tỉnh giấc quay về cai ngay

Mấy lời tâm huyết tỏ bày

Thấy nhiều nguy hiểm từ rày lánh xa











THẢM  HỌA  CỜ  BẠC



Cờ bạc là bác thằng bần

Tan nhà nát cửa ra thân đê hèn”

Mưu ma chước quỹ đỏ đen

Ngu si gỡ gạc của tiền sạch không

Khi  không tiền bạc khốn cùng

Sinh tâm bất chính, gông cùm khổ thân

Vợ chồng tình nghĩa nát tan

Cháu con vất vưởng muôn ngàn lao lung

Cờ bạc nguy hiểm vô cùng

Khôn thời nên tránh chớ vung tay vào

Mấy lời tâm huyết bảo nhau

Chớ tham cờ bạc khổ đau đời đời!

























VUI  HAY  KHỔ



Tham chi bia rượu vui rồi khổ

Khổ cả gia đình khổ bản thân

Bao nhiêu tai hoạ đang chờ sẵn

Nhà thương, nghĩa địa hay nợ nần

Thân tàn ma dại hồn vất vưỡng

Đi nghiêng đứng ngã trí cùn bần

Nói năng lảm nhảm người khinh ghét

Ai ơi nên bỏ, cứu lấy thân!

















THẮNG HAY BẠI



Hung hăng bạo lực thắng người

Chỉ thêm thù hận để đời hay chi

Sao bằng nhẫn nhục xả ly           

Lấy ân báo oán việc gì cũng thông

Thắng người oán kết chất chồng

Thắng mình an lạc thong dong tháng ngày

Háu thắng chuốc lấy chua cay

Gieo gió gặt bão họa này đẳng đeo



























CỘI NGUỒN AN LẠC



Tâm người đẹp làm nên cảnh đẹp

Miền cực lạc ngay cõi ta bà

Quay đầu lại đấy là bờ giác

Phật tại tâm nào có đâu xa

Sống Từ Bi phước tăng vô lượng

Hành Hỷ Xã tội diệt hà sa

Nguồn an lạc từ đây khai mở

Hạnh phúc thay ngày một thăng hoa…



NGUYÊN NHƠN
























Tứ VÔ LƯợNG TÂM

__________

















Chùa tân an





Đây Tân An, một ngôi chùa nhỏ

Tuy giản đơn mà đủ uy nghi

Ngày ngày chuông đổ hai thì

Đêm đêm tiếng mõ Liên Trì – Pháp Hoa



Làn tóc xanh cạnh bên đầu bạc

Phận sự cùng gánh vác chung lưng

Dù khó nhọc, dù gian truân

Luôn luôn gắn bó đạo tâm vững bền



Kiên trì thay gia đình Phật Tử

Chủ nhật nào cũng học cũng chơi

Cùng tu, cùng hát thảnh thơi

Thắm nồng đạo vị sáng ngời tình lam



Dù xa xôi nhưng lòng vẫn nhớ

Kỷ niệm vàng son cả một thời

“ Tân An hai chữ sáng ngời

Tân An hai chữ đời đời không quên”



____________































Gieo hạt



( Mến tặng các em GĐPT Miền Bắc vào dự lớp học Phật Pháp

tại chùa Pháp Lâm  do BHD GĐPT Đà Nẵng tổ chức)





Nam Bắc chung một mái nhà

Về đây tu học đậm đà tình Lam

Mai nầy kẻ Bắc người Nam

Bồ Đề lớn mạnh – Hoa Đàm ngát hương










VƯỜN KIỂNG NHÀ TÔI





Đầu sân Hoàng Hậu đón đưa

Cùng cây Dương Liễu phủ vừa bóng im

Giữa sân Vạn Tuế xinh xinh

Bên hòn non bộ thắm tình núi sông

Thú chơi cây kiểng kỳ công

Bon sai – tiểu cảnh sánh cùng giả sơn

Bao nhiêu tâm sự nguồn cơn

Gởi cùng cây kiểng sớm hôm tỏ bày

Mai- Lan - Cúc -Trúc xưa nay

Tiếp nhau hưng thịnh phước này phải tu

Những ai tài đức có dư

Sung- Mãn –Quan –Quý sẵn chờ quý nhơn

Ngại chi những sự thiệt hơn

Trồng cây Lưu Phước tử tôn được nhờ

Cảnh thực mà tưởng như mơ

Đó là Sen Đá lửng lơ giữa trời

Mặc cho thế sự đầy vơi

Xem cây Tai Khỉ thảnh thơi vô cùng

Cau Rừng – Dừa Nước thủy chung

Giàu nghèo sướng khổ vẫn cùng có nhau

Nhìn cây Hoa Giấy nhiệm mầu

Tuy rằng một gốc hai màu trổ hoa

Dù cho nắng cháy mưa sa

Lão Tùng vẫn khỏe hát ca bốn mùa

Những ai thèm chát thèm chua

Có Me có Ổi cũng vừa đúng gu

Nếu mà bận rộn lu bù

Chơi cây Hoa Sứ cũng thu được tiền

Dù ai uốn ngã bẻ ngiêng

Rễ cây Bạch Tuyết như kiềng ba chân

Duyên dáng yểu điệu Cườm Thân

Hàn thuyên tâm sự dưới trăng tuyệt trần

Ngọc Anh hoa trắng như tơ

Tưởng chừng thục nữ đứng chờ đợi ai

Sanh - Cừa - Đề - Sộp ra oai

Rễ cao rễ thấp mấy ai sánh cùng

Uống trà sẵn có Lài – Ngâu

Ngắm hoa Chiếu Thủy tìm trăng đáy hồ

Muốn xem gia đạo kiết hung

Thịnh thời Sói tốt, gặp suy  Sói tàn

Mô Da lá trổ mơ màng

Cùm Rụm tuy nhỏ cũng hàng lão lai

Thi gan tuế nguyệt Bích Mai

Bốn mùa hoa nở vượn tài là đây

Tiểu Long cả nhợ cả dây

Thuộc dòng họ Lý phủ đầy bóng im

Riêng cây Sơn Tuế âm thầm

Nhìn xem thế sự xoay vần ra sao

Mỗi khi lòng thấy nao nao

Dạo quanh vườn kiểng thuốc nào quý hơn



Ô MAI LUÂN


























NGHĨA SỐNG





Bảy mươi bảy lần  xuân đến xuân đi

Gian nan khổ cực nào có ngại chi

Chỉ ngại làm người không được đúng nghĩa

Uổng công cha mẹ đâu chẳng ích gì

Còn sống ngày nào quý thay ngày đó

Công ơn đền đáp luôn nhớ khắc ghi

Mong được xứng đáng làm người hữu ích

Để khỏi người đời mai mỉa thị phi



Xuân Canh Dần 2010

NGUYÊN NHƠN






Phải chăng em đợi anh về





Mỗi lần đến thăm lăng mộ

Loay hoay đốt nén hương thơm

Nhìn ánh lửa bập bùng cháy

Những làn khói mỏng vươn vươn

Chốc chốc những làn gió thoảng

Ơn ớn lạnh cả người

Không gian vô cùng trống vắng

Âm dương cách trở đôi đường

Hay em đã hiện hữu

Ngồi cận kề cùng anh

Vơi đi nỗi đơn độc

Dưới nấm mồ lặng thinh

Thôi em cứ yên nghỉ

Chúng ta đã sống bên nhau trọn đời

Thì đến khi chết

Hai nấm mồ bên nhau mãi mãi đó thôi

Thương thiên hay miền Cực Lạc

Em vẫn tấn tu

Cầu xin Phật hộ

An dưỡng ngàn ngàn thu



Sau tuần chung thất tại mộ phần hiền thê

              Nguyễn Viết Ô Mai Luân

















VÔ THƯỜNG





Nhìn hoa hoa nở hoa tàn

Nhìn mây khi tụ khi tan lưng trời

Nhìn sông lắm lúc đầy vơi

Nhìn vào cuộc sống nổi trôi đoạn trường

Đời người khác thể giọt sương

Cũng như lá đổ còn vương đầu cành

Còn trẻ da thắm tóc xanh

Thắm thoát mấy độ nay thành lão gia

Đời như tia nắng chiều tà

Vô thường ập đến thế là mạng chung



NGUYÊN NHƠN











Tình lam???





















Nước với đá



 Nước  thể lỏng, xuyên suốt, thấm thấu, nước có mặt khắp nơi khắp chốn, thậm chí nước vẫn có mặt trên núi cao, tích tụ thành khe suối, thành sông ngòi, lần hồi về với biển cả. Nước rất thảnh thơi, ở đâu cũng hát cũng ca, tùy nơi mà âm điệu khác nhau, khe suối thì róc rách, sông ngòi thì rì rào, biển cả thì lao xao bì bạch. Nước bốc hơi thành mây chu du đây đó, gặp khí lạnh thành mưa. Nước nuôi dưỡng muôn hoa muôn vật. Nước rửa sạch những vết bẩn ở trần gian.



Đá thể cứng, nặng, ù lì, kích cở đủ loại, có những tảng đá khổng lồ, ức hiếp cây cối không ngóc đầu dậy, sức người cũng không di chuyển nổi.

Một hôm nước gặp đá hỏi:

Nầy đá, đá cứng lắm phải không?

Đá huênh hoang tự hào:

Nước không nghe người ta nói à, cứng như đá, trơ trơ như đá vững như đồng đấy chứ.

Nước đáp lại:

Đá không nghe người ta nói ư, nước chảy đá mòn đó sao?

Đá đáp lại:

Thế thì đá kết hợp lại thành bờ để ngăn chận nước.

Nước đáp lại:

Đá không nghe người ta nói tức nước vỡ bờ à, đá dầu cứng mấy cũng bị nước cũng bị nước cuốn phăng thooivaf đá có đè cỏ cây, cỏ cây tạm thời nằm im đấy thôi, đến lúc mưa, nước giúp cho cây cối đứng dậy rồi phủ luôn đá nữa đó.

Đá nghe nước nói vậy toát cả mồ hôi loan khắp núi rừng và cũng từ đó, đá mãi mãi ngồi im lặng mặc cho gió táp mưa sa tháng ngày, nước còn tiếp sức mạnh cho người cưa xẻ đá để phục vụ nhân sinh. Vì vậy mà sau mỗi trận mưa, đá run sợ, mồ hôi toát ra như những làn khói mõng lãng vãng quanh núi đồi.





An nhiên tự tại



Chớ ngại ngùng chi trước bao nghịch cảnh

Bởi trong gian nguy vẫn có duyên lành

Qua cơn mưa rồi trời lại trong xanh

Chim muông hót giữa trời quang mây tạnh

Nếu không có một mùa đông rét lạnh

Thì làm gì mai nở tỏa hương thơm

Bao nghich cảnh đến ta cứ cảm ơn

Vì đã giúp ta thêm nhiều nghị lực

Để vượt qua những khắc nghiệt trong đời











Cẩn ngôn



Nghe nhiều nói ít mới khôn

Nói nhiều làm ít ra hồn gì đâu

Nói năng ngó trước nhìn sau

Tùy thời tùy lúc cùng nhau luận bàn

Chớ nên cải bướng nói ngang

Nói xiên nói xỏ họa  quàng vào Thân

Lời nói nên bạc nên vàng

Cũng vì lời nói tan hoang cửa nhà

Cú kêu kẻ đuổi người xua

Giồng kêu đắt mấy cũng mua đem về

Dùng lời ái ngữ dễ nghe

Dùng lời thâm độc khắt khe ai màng.















Môi trường sự sống



Chúng ta hãy bảo vệ cây xanh

Cùng gìn giữ môi sinh an lành

Cây xanh tươi tốt người tươi tôt

Môi sinh tốt con người tốt tươi



Rừng xanh lá phổi tuyệt vời

Sông ngòi huyết mạch dưỡng nuôi muôn loài

Cỏ cây động vật quanh ta

Nương nhau để sống chan hòa quý thay

Cùng nhau khuyên nhủ từ nay

Môi trường sạch đẹp tháng ngày an vui.































Hạt sương trước gió



Giáp Tuất năm nay bảy chín tròn

Nổi nôi trôi trôi với nước non

Năm năm tháng tháng nhờ thiên địa

Thời thời khắc khắc cậy Tổ Tông

Thọ yểu là do tại phúc hồng

Vận số dài lâu khó ước mong

Hữu sanh hữu tử đâu quản ngại

Thọ được như ri quý vô cùng



Thọ được như ri quý vô cùng

Giờ đây như thể hạt sương đông

Long lanh chốc lát tan theo gió

Vô thường ập đến có như không



Xuân

Nhâm Thìn 2012

































Ngã mạn thậm nguy



Tự tôn - Tự đại - Tự cao

Tự đắc - Tự mãn, Tự nào cũng nguy

Sao bằng khiêm tốn xã ly

Từ hòa ái ngữ việc gì cũng thông

Thế gian mọi sự vô thường

Được thời đắc thế, hết thời lao đao

Dù cho tài trí thế nào

Điềm đạm xử thế dạt dào tình thâm













Sưu tầm













14 điều răn của Phật???




Mười Điều Tâm Niệm


Hòa thượng Trí Quang Dịch


Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh.

Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu xa nỗi dậy.

Thứ ba, cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.

Thứ tư, xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.

Thứ năm, việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường, kiêu ngạo.

Thứ sáu, giao tiếp đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.

Thứ bảy, với người thì đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng.

Thứ tám, thi ân thì đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân mà ý có mưu đồ.

Thứ chín, thấy lợi thì đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động.

Thứ mười, oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả.



Nhịn được cái tức một lúc tránh được mối lo trăm ngày…

Muốn hòa thuận trên dưới nhẫn nhục đứng hàngđầu

Cái gốc trăm nết, nét nhẫn là cao

Cha con nhẫn nhịn nhau vẹn toàn dạo lý

Vợ chồng nhẫn nhịn nhau con cái khỏi bơ vơ

Anh em nhẫn nhịn nhau trong nhà thường yên ấm

Bạn bè nhẫn nhịn nhau tình nghĩa chẳng phai mờ

Tự mình nhẫn được mình, ai cũng mến yêu

Người mà chưa biết nhẫn chưa phải là người hay./.



Sống

Sống không giận,không hờn,không oán trách
Sống mỉn cười với thử thách chông gai
Sống vươn lên theo kịp ánh ban mai
Sống an hòa với mọi người chung sống.

Sống là động nhưng lòng luôn bất động
Sống là thương nhưng lòng chẳng vấn vương
Sống yên vui danh lợi mãi coi thường
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến.

 


 



 


Gieo Gì Hôm Nay...!


Nếu bạn gieo Thành Thật bạn sẽ gặt Lòng Tin
Nếu bạn gieo Lòng Tốt bạn sẽ gặt Thận Thiện
Nếu bạn gieo Khiêm Tốn bạn sẽ gặt Cao Thượng
Nếu bạn gieo Kiên Nhẫn bạn sẽ gặt Chiến Thắng
Nếu bạn gieo Cân Nhắc bạn sẽ gặt Hòa Thuận
Nếu bạn gieo Chăm Chĩ bạn sẽ gặt Thành Công
Nếu bạn gieo Tha Thứ bạn sẽ gặt Hòa Giải
Nếu bạn gieo Cỡi Mở bạn sẽ gặt Thân Mật
Nếu bạn gieo Chịu Đựng bãn sẽ gặt Cộng Tác
Nếu bạn gieo Niềm Tin bạn sẽ gặt Phép Màu

Nhưng .....

Nếu bạn gieo Dối Trá bạn sẽ gặt Ngờ Vực
Nếu bạn gieo Ích Kỷ bạn sẽ gặt Cô Đơn
Nếu bạn gieo Kiêu Hãnh bạn sẽ gặt Hũy Diệt
Nếu bạn gieo Đố Kỵ bạn sẽ gặt Phiền Muộn
Nếu bạn gieo Lười Biếng bạn sẽ gặt Mụ Mẫn
Nếu bạn gieo Cay Đắng bạn sẽ gặt Cô Lập
Nếu bạn gieo Tham Lam bạn sẽ gặt Tỗn Hại
Nếu bạn gieo Tầm Phào bạn sẽ gặt Kẽ Thù
Nếu bạn gieo Lo Lắng bạn sẽ gặt Âu Lo
Nếu bạn gieo Tội Lỗi bạn sẽ gặt Tội Lỗi

Vì Vậy Hãy Cẩn Thận Những Gì Bạn Gieo Hôm Nay,Nó Sẽ Quyết Định Những Gì Bạn Gặt Vào Ngày Mai....











[1] Núi Linh Sơn phía Tây
[2] Núi Châu Sơn phía Đông